ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

                                    (Tứ thập ngũ niên)

 

  

            Quang cảnh

TÒA THÁNH TÂY NINH

 

Cửa số 1 – Hòa Viện

 

 

                                    HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN

                                            GIỮ BẢN QUYỀN

                                             Canh Tuất – 1970


 

Tủ Sách Đại Đạo xin chân thành cảm ơn Huynh Nguyễn Văn An (Long Hoa, Tây Ninh) đã công quả đánh máy lại tập sách này.

 

                    ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

                                        (Tứ thập tứ niên)

                                    TÒA THÁNH TÂY NINH

 

 TẶNG QUYỂN “QUANG CẢNH TÒA THÁNH”
                                CỦA HUỆ PHONG

Tòa Thánh Nội Ô dẫn  giải rành.

Huệ Phong quản bút thật tinh anh.

Nhiệm mầu cảnh trí tay tô điểm,

Thâm thúy thi văn, cách phổ trình.

Đạo sử phô bày tranh cẩm tú,

Tổ đình diễn tả nét uy linh.

Biết bao khó nhọc công biên soạn,

Lưu dấu ngàn năm chí nhiệt thành.

Tòa Thánh ngày 22/9/69

THƯỢNG SANH

(Ấn ký)

 

 

HIỆP THIÊN ĐÀI     ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

       VĂN PHÒNG                               (Tứ thập tứ niên)

     KHAI ĐẠO                    TÒA THÁNH TÂY NINH

 Tòa Thánh, Ngày 20 tháng 4 năm Kỷ Dậu

(DL. 4-6-1969)

 

KHAI ĐẠO HIỆP THIÊN ĐÀI

Kính gởi: Hiền Hữu HUỆ PHONG Tây Ninh

Hiền Hữu.

Tôi có nhận được bản thảo cuốn “QUANG CẢNH TÒA THÁNH TÂY NINH” lược giải của Hiền Hữu tôi để lời cảm tưởng.

Nhận thấy Hiền Hữu đã cố gắng rất nhiều trong công tác tìm tòi thi phú của các bậc tiền bối sáng tác để giải thích và phổ biến trong Đạo và Đồng Bào.

Với cách bố cục và lời diễn đạt thật giản dị rất hợp với tâm tư tình cảm của giới Tín Hữu, quyển sách “QUANG CẢNH TÒA THÁNH TÂY NINH” có thể là một tài liệu hữu ích cho tất cả Chức Sắc đi truyền giáo để giúp Đạo Hữu hiểu qua TÒA THÁNH TÂY NINH của nền Đại Đạo.

KHAI ĐẠO HIỆP THIÊN ĐÀI

(Ấn ký)

PHẠM TẤN ĐÃI


CỬU TRÙNG ĐÀI    ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

       VĂN PHÒNG                               (Tứ thập tứ niên)

NGỌC CHÁNH                TÒA THÁNH TÂY NINH

       PHỐI SƯ

 `````Lời giới thiệu

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ danh gọi là Đạo CAO ĐÀI khai sáng tại Miền Nam Việt Nam đã gần nửa thế kỷ.

Số Tín Đồ trong toàn quốc lên tới hàng trên hai triệu.

Sức cảm hóa lan tràn mau lẹ hơn các Tôn Giáo cổ kim là nhờ năng lực huyền diệu tâm linh tức là tinh thần tổng hợp “Tam Giáo Đồng Nguyên NHO, THÍCH, ĐẠO” đồng tiến với tâm hồn truyền thống của dân tộc Lạc Hồng đã có bốn ngàn năm văn hiến.

Đức CHÍ TÔN định Thánh Địa tại tỉnh Tây Ninh làm nguồn gốc của Đạo.

Tòa Thánh thể hiện cho “BẠCH NGỌC KINH” tại thế lại là một kỳ quan của đất nước, xây cất rất thẩm mỹ siêu phàm với sự kiến trúc tổng hợp của hai nên văn minh Âu Á trên vùng đất diện tích gần một trăm mẫu tây, cao ráo, cây cối sum sê mát mẽ, một cảnh trí địa linh đượm màu huyền bí Thiêng Liêng của Tạo Hóa.

Đường sá được cắt ngay thẳng, rộng rãi nối liền các cơ sở văn hóa, xã hội, canh nông, công nghệ, kiến trúc trực thuộc cơ quan Chánh Trị Đạo hiện hành và các dinh thự đồ sộ kiến trúc tân thời có trật tự trong mỗi khu vực, là nơi cho Chức Sắc Thiên Phong nam nữ của Hội Thánh Lưỡng Đài: HIỆP THIÊN, CỬU TRÙNG và PHƯỚC THIỆN điều hành Đạo sự.

Với mục đích giúp cho đồng Đạo ở phương xa cũng như du khách thừa nhàn để bước đến Thánh Địa sưu tâm Chơn Lý và ngoạn cảnh, Tu Sĩ HUỆ PHONG đã dày công soạn ra tập thơ “NỘI Ô TÒA THÁNH” lược giải có mạch lạc, sắp đặt có trật tự đã giản dị lại thâm thúy, phô diễn được hai phương diện lịch sử và địa lý vẽ nên bức tranh linh động điểm những nẻo thanh kỳ hoa gấm căn bản hình thành của Đại Đạo làm cho Độc Giả phải suy tư, hứng thú say sưa với những thi thơ bao hàm ý nghĩa thâm viễn linh diệu của các Đấng Tiền Bối trong Đạo.

Quyển văn thơ nầy rất hữu ích cho mỗi gia đình Đạo Giáo nên có để xem,  hay những khách bàng quan du ngoạn để tâm hiểu Chơn Lý của Nền Quốc Đạo Việt Nam.

Tòa Thánh, Ngày 15 tháng 4 năm Kỷ Dậu

(DL. 30-5-1969)

NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ

(Ký tên đóng dấu)

NGỌC NHƯỢN THANH

 

Lời Tựa

Thưa quý Độc Giả,

Trước khi lời nói đầu để mở đường vào nội tâm quyển sách, tôi không biết nói chi hơn... là vì khi Đức CHÍ TÔN đến hoằng khai nền Đại Đạo nơi nước Việt Nam vào năm Bính Dần thì tôi còn là một đứa sơ sanh của năm Ất Sửu.

Mãi đến năm 1945 tôi vừa ngộ Đạo lại vừa ham mộ thi văn của các Đấng, lắm lúc tôi cũng tập tành đề đôi câu thi hứng nhưng chưa rõ thi pháp là thế nào... nhờ thời gian trước đây năm 1949 tôi rất may duyên được về phục vụ cho Ngài CAO TIẾP ĐẠO vì đó mà tôi có dịp gần gũi Ngài BẢO VĂN PHÁP QUÂN sau nữa là Ngài BẢO PHÁP để học hỏi ít nhiều về Đạo Đức cũng như văn chương.

Nên tôi có một niềm tin nơi Đức CHÍ TÔN cho rằng: buổi Hạ Nguơn thời kỳ đại ân xá, tôi hằng mong kiếp sanh nầy gắng lập công với Đạo.

Mầng có dịp may, nhưng còn thiểu học, nhờ luồng gió đưa duyên con thuyền thơ mới nhẹ lướt. Vào khoảng trọng Đông năm Mậu Thân tôi gặp ông VÕ THÀNH LƯỢNG là người đồng Tông với tôi, Ông Lượng làm nhiệm vụ Quản Văn Phòng Lại Viện Phước Thiện, Ông bảo tôi viết tập thơ Nội Ô Thánh Địa và nói rằng: Có lời Ngài KHAI ĐẠO dạy, nhưng tôi chưa dám hứa thỉnh thoảng một ít lâu lại gặp Ngài CHƠN NHƠN PHẠM MỘC BỔN Phó Chưởng Quản Phước Thiện với Ngài ĐẠO NHƠN TRẦN MINH VIÊN Thượng Thống Lại Viện Phước Thiện cũng khích lệ tôi như đề tài nói trên.

Thưa quý Độc Giả,

Tôi tự xét mình kiến văn hẹp hòi, còn quang cảnh Tòa Thánh nào là đến đài, dinh thự, đường sá sự phô diễn để tiếp nối có mạch lạc là một điều rất khó.

Bởi cớ nên tôi thường khấn niệm với ơn trên để hộ trì và ban điển cho tôi, quả nhiên Thiên tùng Nhơn nguyện khi tối bắt đầu soạn cho đến ngày tạm gọi hoàn tất tập thơ tôi tin có nhiều ân huệ của các Đấng ban cho.

Nếu còn điều chi sơ suất mong Độc Giả niệm tình rộng thứ hầu phần tô điểm thêm.

Ngày 9 tháng 3 năm Kỷ Dậu

(DL. 25-4-1969)

SOẠN GIẢ

HUỆ PHONG


 

Đầu Đề

Tỉnh Tây Ninh nào thua Tây Trúc,

Ngôi Tổ Đình cao vút mấy trùng.

Châu Vi rộng rãi vô cùng,

Đất non trăm mẫu riêng vùng Nội Ô.[1]

 

Du Khách đến cửa vô Hòa Viện,

La-Ta-Bi (Latapie) lộ hiện mé rào[2].

Kia Tòa Nội Chánh thêm cao

ĐẦU SƯ một vị bền trau ái hòa.

 

Chánh PHỐI SƯ có ba đủ số,

Phái Thái thì giữ Hộ, Lương, Công.

Phái Thượng gồm Học, Y, Nông,

Ngọc Hòa, Lại, Lễ cũng trong Cửu Trùng.

 

TÒA NỘI CHÁNH[3]

Tòa Nội Chánh

Nội Chánh phòng văn Chức sắc dùng,

Phổ thông Chơn Lý Đức Huyền Khung.

Tam Kỳ dựng lại nền Tam giáo,

Cửu Viện gồm trong Phẩm Cửu Trùng.

Tôn Chỉ hợp đồng Âu, Á, Mỹ,

Tinh thần hòa ái Bắc, Nam, Trung.

Mừng nay đảnh Việt Trời khai Đạo,

Tổ Quốc hồn thiêng rạng khí hùng.

 

Bao Chức sắc phục tùng Thánh lịnh,

Bổ địa phương thức tỉnh Nhơn Sinh.

CAO ĐÀI thể hiện Ngọc Kinh,

Ngưỡng xem trước mắt Đền Linh một Tòa.

 

 

                        TÒA THÁNH

 

Đền Thánh

Sự kiến trúc tinh hoa vĩ đại,

Gồm Cửu Trùng, Bát Quái, Hiệp Thiên.

Chung thờ Thần, Thánh, Phật Tiên,

Là cơ hiệp nhứt qui nguyên đại đồng.

 

Thể hình đủ Tam Tông Chơn Giáo,

Chiều đứng thì ba sáu thước cao[4].

Tượng trưng mấy cõi Thiên Tào,

Bề dài đo thử nhằm vào non trăm[5].

 

Còn ngang qua là hăm hai rưỡi[6],

Bước vào đền mát rượi cõi lòng.

Ngước xem trên khoảng La-phông,

Mười khuôn chính giữa lục long du hành.

 

Hình Tứ Linh chung quanh đắp nổi,

Kiến trúc đều mỗi mỗi dày công.

Một ngôi Thiên Nhãn thờ trong,

Trên một, trước một, giáp vòng hăm ba.

 

Tám rồng trắng quanh Tòa Bát Quái,

Cột rồng vàng cả thảy mười cây.

Cửu Trùng khoảng giữa kế đây,

Rồng xanh bên chín, cột xây hai hàng.

 

Cảnh phơ phới nhẹ nhàng để bước,

Ra cửa ngoài nhìn trước Hiệp Thiên.

Dưới trên đưa mắt thấy liền,

Cột đắp rồng đỏ mặt tiền bốn cây.

 

Bên hai cột sen đầy gương ngó,

Ngôi Tổ Đình sáng tỏ Hư Không.

Về phần yếu lý diễn xong,

Là cuốn lược giải của ông Võ Thành...[7]

 

Xem đây nhớ Chùa tranh thuở trước,

Cốt PHẬT TỔ khi được dời về.

THƯỢNG PHẨM Ngài kết hai xe[8],

Đôn đốc Thiện tín đồng hè trải qua.

 

Quả Càn Khôn thêm Tòa Bát Quái,

Phật lẫn người dầu dãi phong sương.

Từ Chùa Gò Kén đổ đường,

Băng rừng lướt bụi đêm trường bình yên.

 

 

Đức Thượng Phẩm đôn đốc công quả phá rừng

Nhớ ơn THƯỢNG PHẨM buổi đầu tiên,

Phổ độ Nhơn sanh mượn cửa Thiền.

GIÁC HẢI đòi Chùa kỳ mãn hạn[9],

CAO QUAN dời Phật bước truân chuyên.

Đường dài mờ mệt trăng khuya vọi,

Đất mới sum sê cội cả liền.

Về đến chốn nầy mừng vạn hạnh,

Trải bao gian khổ phước còn nguyên[10].

 

Nơi đây trước rừng thiêng nước độc,

Nhớ công ơn trẩy gốc ven đường.

Đức THƯỢNG PHẨM mới chủ trương,

Người Miên công quả đảm đương hết lòng.

 

Vùng đất Thánh lục long phò Ấn,

Sự nhiệm mầu các đấng chỉ rành.

Làm nơi qui hợp Lương Sanh,

Khuyên đời bỏ dữ về lành tu thân.

 

Lo độ tận Nguyên Nhân dưới thế,

Thả Thuyền Từ khắp bể trầm luân.

CHÍ TÔN rưới giọt hồng ân,

Việt Nam linh địa trở lần kinh doanh.

 

Cơ phong Thánh đàn anh toàn hảo,

Tấm trung cang lo Đạo phổ truyền,

GIÁO TÔNG mưu chống cường quyền,

Nửa đêm THƯỢNG PHẨM chùa liền dựng lên.

 

Năm Đinh Mão xây nền Đạo cả,

Người Pháp thì mưu phá nhiều lần...

GIÁO TÔNG người nói của dân[11],

Nếu người Pháp phá khó phần trị an.

 

Cường quyền Pháp hoang mang khó định,

Lỡ dựng rồi ra lịnh đình công.

Ngôi thờ cương quyết tạo xong,

Lễ sanh[12] một vị cúng trong tứ thời.

 

Còn công thợ riêng nơi làm lụn,

Nghe tới giờ quì cúng trên dăm[13].

Tinh thần tín ngưỡng cao thâm,

Nhắc đến chùa mới những năm ban đầu.

 

 

Tòa Thánh cũ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hiệp Thiên Đài hai lầu Chuông, Trống,

 Nóc lợp ván chưa đóng vách phên.

Dây bòng bông quấn bốn bên,

Ngôi sao đèn giấy treo lên giáp vòng.

 

Sự thờ phượng bên trong thuật lại,

Quả Càn Khôn lợp vải quanh ngoài.

Trước thì có bảy chiếc Ngai,

Giữa tám pho tượng phô bày ngũ chi.

 

Nay đồ sộ sánh thì hơi khác,

Văn Pháp Quân cảm tác năm vần.

Đề cao sự nghiệp tinh thần,

Ý tứ phô diễn có phần tinh anh.

 

Ngài BẢO VĂN PHÁP QUÂN

Thánh Tòa xưa khởi lợp tranh xanh,

Kiến thiết tròn đêm chóng lập thành.

Chuyển vận ĐẦU SƯ ngừa quỉ kế[14],

Thừa cơ THƯỢNG PHẨM tạo Cung Đình.

Bốn ba năm Đạo rày nên mặt,

Mấy triệu Tín Đồ hiện rỡ danh,

Hùng khí người xưa gầy sự nghiệp,

Thờ ơ ta há để tan tành.

 

Lời thơ đọc đành rành như thấy,

Ngôi Chùa xưa trải mấy thương tang.

Đài Cao nay chiếu linh quang,

Độc nhứt vô nhị thế gian chưa từng.

 

Qui Nguyên Tam Giáo độ Nhơn Quần,

Nguơn Hạ Cao Đài rưới huệ ân,

Tỉnh thế Trời đưa Chuông Bạch Ngọc,

Dẫn Phàm Đạo sẵn đuốc Hồng Quân.

Một Tòa Thánh Vức Lương Sanh hội,

Chín Phẩm Thần, Tiên thoại khí nhuần.

Từ Phụ giáng trần đưa sứ mạng,

Thể thiên dìu khách thoát trầm luân.

 

Từ Bính Dần đến xuân Kỷ Dậu,

Cả Nhơn Sanh rõ thấu Chơn truyền.

Mừng nay rạng rỡ mối giềng,

Nhìn Ngôi Đền Thánh phỉ nguyền biết bao.

 

Hãy đưa mắt ra sau Bát Quái,

Tháp GIÁO TÔNG kìa tại giữa sân.

Nhớ ơn xây đắp nền nhân,

HỘ PHÁP Ngài cảm mấy vần phun châu.

 

ĐỨC HỘ PHÁP
nhắn Đức Quyền GIÁO TÔNG

Hồ Lô ai để ở nơi đâu,

Ái Quốc Việt Nam nhét bể bầu.

Cứu thế hồng ân chưa rải khắp,

Nâng thuyền lòng nước vốn còn sâu.

Nhơn tài nảy nở tuy trăm bụng,

Dân trí biến sanh bởi một đầu.

Ví nhướng mắt Tiên xem rõ trận,

Cuộc cờ thắng bại tận phao câu.

11-9-Bính Tuất (46)

 

Nặng tình cảm Ngài hầu giáng bút,

Năm vận mà nửa phút họa xong.

Xem thơ Đức QUYỀN GIÁO TÔNG,

Lời lời hoa gấm rõ thông nhiệm mầu.

 

 

ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG
(Họa Vận)

Đường trần hạnh phúc đã là đâu,

Chi bẳng Càn Khôn quảy một bầu.

Đủ hiểu tâm phàm lòng lợt lạt,

Dư xem bước tục chí cao sâu.

Thiên Quân ví chẳng ra tiền Đạo,

Tướng Soái khó toan chiếm địa đầu.

Lừa lọc nên hư do phép tạo,

Hưng suy chỉ định bởi đôi câu.

 

Quyền anh cả làm đầu Sanh Chúng,

Nhớ vào đêm lễ cúng tri ân.

HỘ PHÁP Ngài xướng đề thần,

Ngưng Dương họ Lý giáng trần du Nam.

 

 

ĐỨC HỘ PHÁP
xướng, Thần LÝ NGƯNG DƯƠNG du nam

Bửu Linh, Gậy Sắt quảy du Nam,

Nương bóng từ bi đến cõi Phàm.

Độ thế so đồng cân Nhựt, Nguyệt,

Phục sinh đổ trọn giỏ Hoa Lam.

Non Tiên lối cũ thân dầu toại,

Bợn tục đường xưa bước đã nhàm.

Bảy bạn ai còn nơi cõi thế,

Đông du xin nhắc chuyện Ông Lam...

12-10-Kỷ Sửu (1949)

 

Xưa Thủy tộc lòng tham Ngọc Bảng,

Lý Ngưng Dương đốt cạn bể Đông.

Đề thơ HỘ PHÁP luận xong,

Nhắc Ngài giáng thế ở trong Tam Kỳ.

 

Nhìn Tả, Hữu kia thì đôi Tháp,

Đạo xây lên để đáp thâm ân.

ĐẦU SƯ, nam, nữ cân phân,

Tây Lang một tháp, tháp gần Đông Lang.

 

Hai Tháp ĐẦU SƯ thấy rõ ràng,

Nêu gương ái chủng đẹp Nam Bang.

Về Tiên công quả nêu Đài Ngọc,

Giúp Đạo thân danh tạc sử vàng.

Cửa Thánh vẹn đề câu nghĩa cử,

Đèn thiên soi tỏ tấm trung cang.

Đổi bao sự nghiệp làm âm chất,

Quyết tạo trần gian cõi Niết Bàn.

 

Hai Thiên Phẩm trong hàng Tiền Bối,

Rất dày công độ rỗi nhân gian.

Kìa là Hậu Điện nằm ngang,

Bửu Tòa sau trước rõ ràng chữ sơn.

 

 

Sân ĐẠI ĐỒNG XÃ

Sân Đồng Xã lấn chân đôi phút,

Gốc Phướn Linh sen đúc nên Tòa.

Bồ Đề một cội diềm dà,

Mấy vần cảm vịnh dưới là Chơn Tâm.

 

 

CHƠN TÂM

Đứng trước Tổ Đình dợn sắc lam,

Bồ Đề khác hẳn mọi cây phàm,

Chen nền Đạo hạnh, tàn cao rậm,

Gội đức Càn Khôn, rễ cứng châm.

Dấu Phật nảy mầm nơi đất Ấn,

Trường tu lưu giống ở Trời Nam.

Sống bền cửa Thánh danh nêu rạng,

Che bước Nhơn Sanh mối Đạo tầm.

 

HỘ PHÁP trồng, khuya hăm ba rạng...

Cúng thời xong Ngài giảng nghe qua.

Giống nầy của Đức THÍCH CA,

Tích Lan đem tặng nay đà sum sê.

 

Danh rạng trường tu ngắm rất xuê,

Che sân Đồng Xã cội Bồ Đề.

Gốc sanh đất Ấn mầm lan rộng,

Duyên đội Trời Nam lá phủ phê.

Một sớm Thiên Quân trồng cửa Thánh,

Ngàn xưa PHẬT TỔ lánh sông mê.

Tích Lan tìm Đạo Tam Kỳ tặng[15],

Mở lối truy nguyên khách lộn về.

 

Rừng Thiên Nhiên đây kề đôi cụm,

Chim chóc về lúm xúm nghe kinh.

Dừng chơn du khách say nhìn,

Tưởng chừng lãnh uyển phô hình cửa không.

 

Trải qua dâu bể mấy Thu, Đông,

Sừng sựng rừng Thiên trước Đại Đồng.

Mát mẽ bốn mùa chim gọi tổ,

Diềm dà đôi cụm gấm thêu bông.

Nương nhau gốc lớn tàn thêm rậm,

Che khắp mầm non Đạo mới trồng[16].

Đền Thánh vững vàng sung cội cả,

Vươn mình muôn ngọn chận mưa dông.

 

Kìa tả, hữu mắt trông hiển hiện,

Hai Khán Đài đối diện rất xinh.

Tạo nên cũng lắm công trình,

Còn nhiều cảnh nữa mắt nhìn trước đây.

 

Cửu Trùng Thiên nền xây vững chắc,

Hình chấp tay Sa Nặc bôn ba.

PHẬT TỔ cỡ Găn-Ta-Ca[17],

Thanh Tùng cảm hứng vịnh ra một bài.

 

 

Tượng Đức Phật Tổ kỵ mã

 

 

Thanh Tùng[18]

Ai phía trời Tây cứ ngó hoài,

Nhìn tường hình cốt tưởng Như Lai.

Tay che nhãn huệ dường xông tới,

Chơn thúc ngựa linh tợ chạy bay.

Bởi sợ nhiễm trần xa ngọc điện,

Vì lo độ chúng lánh kim giai.

Lập nên Phật Giáo đời tôn kính,

Lưu lại ngàn sau cảm Đức Ngài.

 

Buổi Hạ Nguơn Cao Đài chuyển thế,

Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ lập ra.

Vui xem phong cảnh Đạo nhà,

Đây đường THƯỢNG PHẨM cửa là số hai.

 

Lộ đề danh công Ngài vạn thuở,

Để ghi ơn khai mở Đạo Trời.

Thi văn Ngài cũng tuyệt vời,

Về Tiên giáng bút ngỏ lời độ nhân.

 

 

Đức CAO THƯỢNG PHẨM

Đổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,

Rưới chan cho khắp giọt hồng ân.

Rừng Tòng thanh nhã say mùi Đạo,

Bể khổ mênh mông vớt khách trần.

Linh dược đầy bầu là cội ái,

Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.

Buồm trương lái vững chờ sông lệ,

Đưa chiếc thuyền sen dựa đảnh thần.

 

Đức THƯỢNG PHẨM đem thân lo Đạo,

Buổi sanh tiền chịu khảo gian nan.

Về nơi Thảo Xá dưỡng nhàn,

Đề thơ thọ khổ vững vàng đức tin.

 

Đức CAO THƯỢNG PHẨM

Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,

Bằng địa sóng xao khiến rập rình.

Tà mị phàm rung rinh chất Thánh,

Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh.

Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng,

Nay Tổ Đình hiu quạnh lụy nhìn.

Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu,

Cộng tâm chung trí há làm thinh.

 

Tháp HỘ PHÁP kia nhìn ngay lộ,

Chờ Liên Đài mấy độ tinh sương.

Chánh Môn phía trước biểu dương,

Nêu ba Cổ Pháp làm phương bảo tồn.

 

Kỳ quan đất Việt bốn phương đồn,

Tòa Thánh nhìn ngay cổng Chánh Môn.

Liễn đối Cao Đài hòa Thế Giới,

Rồng chầu Cổ Pháp hiệp Càn Khôn.

Tây Thiên mở lối dìu Nhân Loại,

Nam Đảnh chung dường niệm CHÍ TÔN.

Gieo mặt Địa cầu nền Đạo cả,

Ban cho vạn chủng phép sanh tồn.

 

 

CỔNG CHÁNH MÔN

 

Cổng Chánh Môn

Duyên may đặng CHÍ TÔN điều độ,

Đem Thánh tâm giác ngộ nhân quần.

Kìa là hai Tháp Cao Quân,

Tiếp Đạo, Văn Pháp nêu ngần tấm gương.

 

Sống thì độ chúng thác nêu gương,

Đôi Tháp Cao Quân ngắm tỏ tường.

Đuốc huệ khêu lòa trang Đạo Sử,

Bút Thần điểm rạng khách văn chương.

Tinh trung soi thấu vùng Tây lãnh,

Từ ái dìu an giống Việt Thường.

Lánh tục về tiên hằng toại chí,

Đền linh còn thoáng nếp thư hương.

 

Sống về Đạo biểu dương tánh đức,

Công nghiệp còn sáng rực Đài Vân.

Ở trần mà hẳn khác trần,

Qui hồi cựu vị tinh thần lạc hoan.

 

Lộ HỘ PHÁP trở sang xem rõ,

Dương dặt dìu sáo gió nhẹ lâng.

Thướt tha như xủ phất trần,

Chơm Tâm đề vịnh mấy vần du dương.

\

Che mát Nhơn Sanh bóng rợp đường,

Tốt tươi nhành lá mấy hàng dương.

Với chùa đã sẵn duyên dan díu,

Cùng liễu như in dáng dịu dàng.

Phiền não khách trần chan giọt nước,

Thanh tao nhạc gió phổ cung đàn.

Sớm khuya gợi tỉnh lòng nhân thế,

Độ khách trường tu bước nhẹ nhàng.

 

 

Cột đèn điện một hàng ngay giữa,

Lộ đôi chiều bên nửa song song.

Chợt xem bên trái kế trong,

Trai Đường liền với Trù Phòng kho lương.

 

 

                    GIÁO TÔNG ĐƯỜNG

 

Nhìn bên hữu nghĩ thương anh cả,

Xưa Pháp giam bèn trả bội tinh[19].

Quên mình lo độ nhân sinh,

Tự do tín ngưỡng quyết binh Đạo Trời.

 

                        GIÁO TÔNG ĐƯỜNG

 

                        Nhớ Đức Quyền GIÁO TÔNG

Bồng Lai anh cả ngự an nơi,

Xưa Pháp mưu giam nhắc nghẹn lời.

Phước địa Tây Ninh nguyền mở Đạo,

Bội tinh Bắc Đẩu trả cho Đời.

Chín năm dựng nghiệp nêu Đền Thánh,

Muôn thuở về Tiên hưởng phép Trời.

Sanh chúng cảm ân người sáng tạo,

Công trình tạc để tấm gương ngời.

 

Ngôi thờ phượng đời đời sáng tỏ,

GIÁO TÔNG ĐƯỜNG hai ngõ vô ra.

Ngang dãy nhà khách ngó qua,

ĐẦU SƯ nữ phái một tòa đoan trang.

 

                        NỮ ĐẦU SƯ ĐƯỜNG

 

Văn phòng: Nữ Đầu Sư Đường

ĐẦU SƯ ĐƯỜNG ngắm rất huy hoàng,

Tiền sử nhờ bà lượt mấy trang.

Nhắc Đức CHÍ TÔN khi mở Đạo,

Nêu công THƯỢNG PHẨM lúc xây bàn.

Thời kỳ buổi nọ đầy tin tưởng,

Sự nghiệp ngày nay đặng vẻ vang.

Nắm trọn quyền hành lo giáo hóa,

Là nơi phái nữ thọ ân chan.

 

 

                        HẠNH ĐƯỜNG

Kế Hạnh Đường dạy hàng Chức Sắc,

Hiểu Chơn Truyền dìu dắt Quần Linh.

Đây là cửa Khổng sân Trình,

Đề thi, Bảo Pháp còn in khoa trường.

 

Hạnh Đường

 

                       

                        Ngài BẢO PHÁP

Hội Thánh giao, cai quản Hạnh Đường,

Ân cần lo lập kỷ trần cương.

Giúp người tâm chí hành Thiên mạng,

Tuyển bậc nhân tài trấn địa phương.

Học hỏi khép vào khuôn Đạo lý,

Lọc lừa mở rộng cửa khoa trường.

Góp phần xây dựng trong muôn một,

Khó vẫn không nao nhọc chả màng.

18-8-1957

 

Xin nhắc lại điển quang anh cả,

Giáng thần cơ về họa mấy vần.

Để lời nung đúc tinh thần,

Rất nhiều ân huệ đượm nhuần tình thương.

 

                        Đức Quyền GIÁO TÔNG

Học vấn từ đây Đạo mở đường,

Luyện trau Chức sắc kỷ hòa cương.

Quyền đời hóa chúng còn phô đức,

Cửa Thánh độ người há kém phương.

Đạo Đức dồi dào nung khách trí,

Nho Phong nhuần gội vững can trường.

Lập công đem đổi nên Thiên vị,

Đèn sách bền theo nhọc chớ màng.

(Đêm 29-9 Đinh Dậu 57)

 

Thơ Ngài thật kho tàng Giáo Lý,

Hơi văn đầy linh khí Cao Đài.

Lộ THƯỢNG TRUNG NHỰT danh Ngài,

Đó cửa mười một rào ngoài phía đông.

 

Còn một dãy bên trong Trại Mộc,

Dưỡng Lão Đường tại gốc không xa.

Kế Ban Tương Trợ đây là,

Hữu Bộ Pháp Chánh nhìn qua rõ ràng.

 

                        Bộ PHÁP CHÁNH

Văn phòng Pháp Chánh một cơ quan,

Hội Thánh Hiệp Thiên đứng bảo toàn.

Lấy sự công bằng gìn mực thẳng,

Thể lòng bác ái rưới ân chan.

Cầm cân, cân đúng điều tranh tụng,

Giữ luật, luật làm phép trị an.

Đại Đạo, Qui Điều nhờ sẵn có,

Thượng hòa hạ mục rất nghiêm trang.

 

                        Văn phòng HIỆP THIÊN ĐÀI

Phòng Hiệp Thiên kề ngang một dãy,

Đức THƯỢNG SANH lèo lái con thuyền.

Thời Quân chư vị đương quyền,

Chung gìn luật pháp Chơn truyền CHÍ TÔN.

 

Hiệp Thiên đôi liễn ứng tiền môn,

Mở lối qui nguyên lập bảo tồn.

Một mực cầm cân gìn luật pháp,

Ba chi chuyển thế định Càn Khôn.

Nền nhân bồi đắp lưu thiên cổ,

Thuyền huệ phao tuông độ bát hồn.

Chung sức Thời Quân thừa sứ mạng,

Tinh thần vững đặc tợ non Côn.

 

Nâng cơ bút bảo tồn Chánh Giáo,

Ngài điều hành cơ Đạo hiện nay.

Phối Sư trí cảm đức tài,

Năm vần kính gởi mầng Ngài THƯỢNG SANH.

 

                        Ngài Phối Sư THƯỢNG TRÍ THANH

Toàn Đạo hoan nghinh Đức THƯỢNG SANH,

Nay về Tòa Thánh bủa ân lành.

Phướn Linh bảo hộ trang hiền ngỏ,

Phất Chủ quét tan kẻ bạo hành.

Chỉnh đốn luật điều y chánh giáo,

Chấn hưng Đại Đạo rạng thinh danh.

Chuyển cơ tận độ hòa nhân loại,

Sứ mạng CHÍ TÔN đã sẵn dành.

15-4 Đinh Dậu (1957)

 

Giáo Sư THÁI ĐẾN THANH họa vận,

Chung đề tài mầng bậc siêu nhân.

Từ nay Đạo hưởng huệ ân,

Nhờ Ngài trụ vững tinh thần chúng sanh.

 

 

                        Ngài Giáo Sư THÁI ĐẾN THANH

Chuyển thế vai tuồng Đức THƯỢNG SANH,

Độ đời bỏ dữ trở về lành.

Chơn Truyền chánh giáo gìn căn bản,

Luật Pháp CHÍ TÔN giữ thiệt hành.

Phất Chủ quét tan lằn trược khí,

Thư Hùng định vững bậc thanh danh.

Đạo, Đời tương đắc xây thời thế,

Sứ mạng Thiêng Liêng luật sẵn dành.

 

Năm vần Đức THƯỢNG SANH họa lại,

Tỏ vai tuồng hiện tại như sau.

Thương đời đang lúc khổ đau,

Thương Đạo gặp buổi phong trào chiến tranh.

 

 

                        Đức THƯỢNG SANH

Đau lòng nhìn thấy khổ Nhơn Sanh,

Tòa Thánh về trau vẹn tính lành.

Góp sức vun bồi nền Đạo Đức,

Ra công nâng đỡ bạn tu hành.

Trường Đời chẳng quản bao nguồn lợi,

Cửa Thánh há cầu một chữ danh.

Sóng gió bao nhiêu thuyền cũng lướt,

Muôn năm nghiệp Đạo quyết lưu danh.

 

Ngài tỏ tấm chơn thành hiện hữu,

Lo Hiệp Thiên thêm Cửu Trùng Đài.

Cầm cân công lý nơi tay,

Hành Chánh, Phước Thiện trong ngoài được an.

 

Đạo trời đặng tiếng vang Quốc Tế,

Nhờ vai tuồng chuyển thế Đức Ngài.

Dưới đây xin nhắc một bài,

Khi về thấy Đạo những ngày đảo điên.

 

                        Đức THƯỢNG SANH

Nhìn thấy Đạo Trời lúc ngữa nghiêng,

Biển khơi ra sức lái con thuyền.

Chống chèo sẵn cậy trang đồng chí,

Day trở nhờ nương bạn Hiệp Thiên.

Bầu ái đầy chan gieo Thánh Đức,

Cõi tâm rộng mở rước Nhân hiền.

Bao nhiêu khổ hạnh thân chi sá,

Miễn đặng ngàn năm nghiệp Đạo truyền.

12-6 Đinh Dậu (09-7-57)

 

Chư Thời Quân Hiệp Thiên họa lại,

Chức Sắc mầng hiện lại cũng đông.

Cả ba Hội Thánh hài lòng,

Tinh thần cảm mến xem xong họa liền.

 

                    Ngài BẢO PHÁP

Tuổi già gặp buổi Đạo chinh nghiêng,

Đành phải ra tay chống đỡ thuyền.

Cỡi sóng quyết sang miền tịnh độ,

Thuận buồm nhờ núp bóng Cao Thiên.

Trên đường độ chúng vui đoàn kết,

Trong việc tu thân học Thánh hiền.

Còn chút hơi tàn còn nhiệm vụ,

Còn lo phổ cập mối chơn truyền.

 

                        Ngài HIẾN PHÁP

Nền Đạo ai làm đến đổi nghiêng,

Ngoại quyền xâm nhập khẳm khuôn thuyền.

Đã cùng gầy dựng nên chơn tướng,

Sao lại chia hai giảm khí thiêng.

Cửa Đạo nhờ ai nên Tướng Soái,

Anh hùng nào kẻ trọng tài hiền.

Trong nhà sẵn có Di Đà Phật,

Còn phải tìm đâu để thọ truyền.

 

                        Ngài TIẾP ĐẠO

Cơ Trời thử thách Đạo chinh nghiêng,

Nhờ bậc tài nhân lái vững thuyền.

Đuốc huệ soi đường lòa Việt đảnh,

Phướn Linh dẫn nẻo rạng Nam Thiên.

Lập quyền vẹn giữ gương từ ái,

Bủa đức bền trau chí Thánh hiền.

Cánh Hạc rừng tòng mừng đặng thấy,

Muôn năm vững đặc mối chơn truyền.

 

                        Ngài TIẾP PHÁP

Gót trần thăng thoắt bước đường nghiêng,

Muốn đến bên kia phải cậy thuyền.

Lèo lái tay gìn luồng nhược thủy,

Kệ kinh miệng niệm thấu Trùng Thiên.

Chí lâm dắt chúng qui đường chánh,

Lòng vẫn noi gương tạo đức hiền.

Đồng Đạo nhắc nhau câu phổ độ,

Cầu cho bá tánh đắc Chơn truyền.

 

                        Ngài KHAI ĐẠO

Đạo Trời thử thách lúc chinh nghiêng,

Quyết chí tâm phương giữ vững thuyền.

Rán sức trở day theo máy Tạo,

Tận tâm chèo chống đáp ân Thiên.

Từ bi nhẫn nại gương Tiên Phật,

Trung thứ khoan dung chí Thánh hiền.

Mừng thấy thời cơ nhiều thuận tiện,

Muôn năm nghiệp Đạo để lưu truyền.

 

                        Ngài BẢO VĂN PHÁP QUÂN

Phong ba chấn động gốc trời nghiêng,

Bát Nhã tuông khơi rắp đắm thuyền.

Hiệp bạn lướt vòng qua hải ngạn,

Quên mình cứu chúng đáp ân Thiên.

Thương đời trót hứa lời vàng đá,

Mẫn khổ tầng vui chí Thánh hiền.

Mong mỏi chút công vun đất tổ,

Điểm tô Quốc Đạo nghiệp lưu truyền.

 

                        Ngài Giáo Sư THÁI ĐẾN THANH

Trải qua mấy lượt Đạo chinh nghiêng,

Bát Nhã lộng khơi vững lái thuyền.

Nước ngược năng chèo nhờ tận lực,

Gió xuôi nhẹ tách bởi ân Thiên.

Độ đời siêng đọc kinh Tiên Phật,

Tạo thế cần xem sách Thánh hiền.

Biến chuyển vừa qua cơn khảo dượt,

Từ đây tỏ rạng mối Chơn truyền.

 

                        Ngài Đạo Nhơn PHẠM MỘC BỔN

Thăng trầm Đại Đạo lúc chinh nghiêng,

Nhờ Đức THƯỢNG SANH vững lái thuyền.

Đầu bịt Thanh Cân cầm Phất Chủ,

Lưng đai Hùng Kiếm giữ Cung Thiên.

Thay quyền Giáo Chủ dìu Nhơn Loại,

Nâng ngọn Thần Cơ độ Sĩ Hiền.

Nâng chuổi từ bi hòa vạn chủng,

Đảm đương sứ mạng hộ Chơn truyền.

 

                        Ông Giáo Hữu NGỌC NHƯỢN THANH

Đỡ nâng nghiệp cả chẳng cho nghiêng,

Bão tố đôi phen lướt Đạo Thuyền.

Mừng Đức Cao Quân gìn Cửa Thánh,

Nắm Thư Hùng Kiếm thuận cơ Thiên.

Lái lèo ra sức dìu đồng chủng,

Doi vịnh thi ân giúp bạn hiền.

Phất Chủ quét tan bầu hắc khí,

Cứu an sanh chúng sử lưu truyền.

 

                        Cô Giáo Thiện CAO THỊ CƯỜNG

Thuyền từ gặp bão đã nghiêng nghiêng,

Nhờ sóng vô vi độ vững thuyền.

Cầm lái dầu qua hồi biến cuộc,

Rọi đường tin có Đấng Linh Thiêng.

Đạo tâm hiệp chí gầy nhơn nghĩa,

Huệ trí chung lưng tạo đức hiền.

Khảo dượt trường thi lừa lọc Thánh,

Nêu cao tôn chỉ để lưu truyền.

 

                        Cô Giáo Hữu HƯƠNG ÁNH

Hạ Nguơn hầu ngã bóng tà nghiêng,

Nhờ Đức THƯỢNG SANH lái vững thuyền.

Bầu thảm người thay bầu tế độ,

Giọt sầu kẻ đổi giọt Thiên ân.

Độ đời xưa cổi Phàm ra Thánh,

Cứu chúng nay đem dữ hóa hiền.

Phướn huệ nêu cao tan ác mộng,

Lịch thanh thêm đậm nét chơn truyền.

 

                        Ông Giáo Hữu THƯỢNG TÝ THANH

Rúng động trời Nam gió thổi nghiêng,

Kẻ sau người trước đỡ nâng thuyền.

Lướt qua Bỉ Ngạn nương lằn sóng,

Thoát khổ trần gian cậy gió Thiên.

Có bạn đồng tâm trang chí Thánh,

Được người chung sức bậc hy hiền.

Máy linh xoay chuyển tan rồi hiệp,

Nghiệp Đạo từ đây vẫn mãi truyền.

 

                        Ông Giáo Hữu THƯỢNG CẢNH THANH
                        “Phó Khâm Thành”

Sanh chúng đau nhìn buổi Đạo nghiêng,

Cao quân tay lái vững khuôn thuyền.

Xa Thơ trổi bánh về đường Thánh,

Bát Nhã trương buồm thuận nẻo Thiên.

Cứu Đạo sẵn nhờ trang chí sĩ,

Giúp đời mong ở bậc tôi hiền.

Qua cơn giông tố ơn nhuần gội,

Lịch sử ngàn năm vẫn mãi truyền.

 

                        Ông Lễ Sanh THƯỢNG CỰ THANH

Bát Nhã ngược chiều gió thổi nghiêng,

Nhờ trang trí cả vững khuôn thuyền.

Cầm lèo đổi hướng qua bờ Đạo,

Giữ lái xuôi dòng đến cõi Thiên.

Cảnh khổ cậy trông tài cứu khổ,

Cầu hiền cảm mộ đức chiêu hiền.

Phất Trần phải lúc lau đời bụi,

Hậu thế danh lưu Đạo Sử truyền.

 

                        Ông Hành Thiện VÕ THÀNH LƯỢNG

Đức Ngài trông thấy cuộc chinh nghiêng,

Xông lướt phong ba lái vững thuyền.

Tầm lối qui nguyên Tam Giáo Đạo,

Độ hồn siêu quá Cửu Trùng Thiên.

Thừa hành sứ mạng xây thời thế,

Ứng dụng huyền cơ chọn triết hiền.

Thống nhứt tinh thần giàu thiện cảm,

Chung lo phổ hóa mối Chơn Truyền.

 

Mừng Ngài về cầm giềng mối Đạo,

Phần đông nhờ lãnh giáo nên gương.

Một hôm Ngài đến Hạnh Đường,

Năm vần khuyến khích văn chương đẹp lời.

 

                        ĐỨC THƯỢNG SANH

Trước làm Tiên, Phật phải làm người,

Muốn đặng làm người chẳng phải chơi.

Bác ái ví chưa tròn bước Đạo,

Từ bi đâu vẹn chí thương Đời.

Mùi trần dầu khỏi bao vòng lụy,

Bể khổ còn qua mấy dặm khơi.

Trau rạng lòng son sanh chúng độ,

Thênh thang nương bóng ngọn đèn Trời.

 

Đức Ngài để những lời vàng ngọc,

Khuyên nữ nam gắng học thành công.

Khóa trường đào luyện Thiên Phong,

Được Ngài huấn vụ phần đông vui vầy.

 

                        HỘ PHÁP ĐƯỜNG

 

Hộ Pháp Đường

Rảo bước đến nơi đây mát mẽ,

HỘ PHÁP ĐƯỜNG tựa vẻ tranh thêu.

Sanh tiền Ngài nắm luật điều,

Còn lo Phổ Độ Việt Kiều bên Miên.

Ngài đến Thất Kim Biên buổi nọ,

Chúng dân nghe mừng bỏ mùa màng.

Tiếp Ngài họ rất hân hoan,

Kế tin điện gọi Ngài toan trở về.

Lòng người vẫn chưa hề thất vọng,

Ba xuân chờ nay bỗng đoàn viên.

HỘ PHÁP Ngài định về liền,

BÁT NƯƠNG giáng bút hầu khuyên Đức Ngài.

 

                        BÁT NƯƠNG

Dường đợi thanh loan đến Hớn Đài,

Tửu Tiên chưa phỉ tỉnh cùng say.

Nghe danh Ông TẮC, Y lìa ruộng,

Mến đức Vua NGHIÊU, THUẤN bỏ cày.

Ái vật THÀNH THANG quên dở ná,

Yêu dân HẠ VÕ mặc hài gai.

Trông mưa đã đợi ba xuân mãn,

Cứu chúng hờn ai chẳng trổ tài.

 

                        Năm 1928

Cả ý tứ trong bài phân cạn,

Đức Ngài bèn ở nán hôm sau.

Dạy rành Đạo Lý bền trau,

Trong tình Nhơn Loại đồng bào mến yêu.

 

Về TÒA THÁNH mọi điều thông cảm,

Ít tháng sau mật thám hoài nghi.

Ngài sang Miên Quốc kịp thì,

NHÀN ÂM giáng điển đề thi mấy vần.

 

                        NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG

Cỡi lưỡi gươm linh tới cõi trần,

Chẳng cần bạch hạc với thanh vân.

Nghe Tây Sơn Đạo[20] nương Tần Quốc,

Nên đến thăm nhau thử một lần.

 

                        Năm 1928

HỘ PHÁP Ngài ân cần sứ mạng,

Pháp dùng mưu khủng hoảng tinh thần.

NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG tỏ phân,

Về Cơ khuyến khích góp phần đảm đương.

 

                            NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG

Ác xế nâng cao bóng Hải đường,

Xa tên nhờ bởi nặng cung trương.

Lòn trôn HÀN TÍN nên cơ nghiệp,

Dâng dép TRƯƠNG LƯƠNG dựng Miếu Đường.

KHƯƠNG THƯỢNG đi câu ra trí Chúa,

VĂN VƯƠNG ngồi ngục mới đồ vương.

Trượng Phu phải mặt không nao chí,

Xung đột quyết hơn chốn chiến trường.

 

Lời thơ đủ biểu dương khí phách,

Đạo phổ truyền thử thách không nao.

Thời gian thắm thoát qua mau,

Muốn cho thế giới trông vào đức tin.

 

Quyết kiến tạo TỔ ĐÌNH đất THÁNH,

Trước khi Ngài vãng cảnh ĐẾ THIÊN.

Chùa xưa thật rất u huyền,

Xuống xe Ngài mới đặt liền Ngọc Cơ.

 

Có một đấng ban sơ giáng bút,

Đề năm vần cảm xúc vô cùng.

Tuy xưa quân giặc hành hung,

TRỜI còn roi dấu một vừng uy linh.

 

                        BAKHANAYOUD

Mưa chầy gió lụn cảnh riêng gìn,

Tạc để nền TIÊN rạng trước Minh[21],

TRỜI hỡi gượng roi gương viễn đại,

Đất còn chặt giữ dấu anh linh.[22]

Rừng tòng hạc lánh muôn năm khuất,

Chùa đá đời lưu một thuở nhìn.

Dâu bể tan tành non nước cũ,

Dừng chuông cảnh tỉnh vẽ nên tranh.

 

                        Năm 1931

Chư THÁNH trước TRỜI dành sứ mạng,

Người sau nguyền làm rạng cơ đời.

Đức Ngài khai sáng Đạo Trời,

Dựng ngôi Đền Thánh rạng ngời nước Nam[23].

 

                        Nhớ ĐỨC HỘ PHÁP

Nền nhân HỘ PHÁP khởi công làm,

Ngài bị cường quyền khổ vẫn cam.

Vâng lịnh CHÍ TÔN xây máy tạo,

Thìn lòng Giáo Chủ đến nhà giam.

Phi Châu ẩn nhẫn giồi gươm huệ,

Tòa Thánh hình dung quá sức phàm.

Kiến thiết nhờ tay tô điểm khéo,

Muôn năm sáng tỏ Đạo kỳ tam.

 

Ngài là Đấng siêu phàm mẫn thế,

Pháp nghi ngờ dụng kế tinh ma.

Bắt đày đảo Ma-Gách-Ca (Madagsascar)

Tiêu Diêu đạo sĩ giáng mà chia đau...

 

                        TIÊU DIÊU ĐẠO SĨ

Quá hải đôi phen đến viếng nhau,

Ngặt không cơ bút để lời giao.

An nhàn đợi thuở triều linh địa,

Chuyển thế gặp hồi phải múa đao.

......................................................

Đức HỘ PHÁP thân vào cảnh khổ,

Thấy ngày về Đất Tổ còn xa.

Buồn trông hòn đảo bao la,

Nỗi thương toàn đạo quê nhà liu chiu.

 

Thương cảnh sớm chim kêu như chọc[24],

Thương đảnh mây gió lốc cơn sầu.

Thương thân đất khách dãi dầu,

Thương về cố quốc rầu rầu nước mây.

 

Đức HỘ PHÁP cầm cây khỏa cát,

Tiếp điển quang Ngài phát viết nhanh.

LINH SƠN THÁNH MẪU nặc danh (!)

Đề thơ gợi thảm sóng gành bể khơi.

 

                        Đức LINH SƠN THÁNH MẪU

NÔ SI LAO (Nossilave) tiếng đặt buồn cười,

Mi đã rước ai hỡi hỡi ngươi !

Lượn thảm bổ gành tình ột ạt,

Gió sầu khua đảnh ải tơi bời.

Yêu phu điểu gợi thương cành sớm,

Vọng ngạn quyên kêu nhớ bụi mơi.

Tổ quốc đón đường bao dặm thẳng,

Đưa xa thăm thẳm một phương Trời.

.........................................................

Hơn bốn thu tranh đời dày dạng,

Các Đấng thường thỉnh thoảng cho thơ.

Được tin gở rối thế cờ,

Linh Sơn giáng bút trong giờ vân du.

 

                        Đức LINH SƠN THÁNH MẪU

Hòn đảo nầy trước đây nhốt tù,

Ngày nay làm khám khảo Thầy Tu.

Quả như oan nghiệt vay rồi trả,

Thì lũ Tây Man Nhựt Bổn trừ.

 

Đức Ngài thấy tin như đã mách,

Cho thời kỳ cổi ách không xa.

Quả nhiên Nhựt đảo Lang Sa,

Năm năm hai tháng Ngài mà hồi hương[25].

 

Bỏ những lúc đau thương thử thách,

Xót những năm đất khách nương thân.

THƯỢNG SANH Ngài cảm mấy vần,

Mầng Đức HỘ PHÁP tinh thần vui tươi.

 

                        ĐỨC THƯỢNG SANH

Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,

Còn non còn nước lại còn người.

Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,

Gặp bạn nầy khi khóc lộn cười.

Nguồn Đạo xưa trông đôi cảnh nghịch,

Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.

Trời Nam thử điểm trang tân sử,

Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.

 

Đức HỘ PHÁP khi rời đất tổ,

Sấm ưu hương từng nổ bên tai.

Dưới đáy thơ họa của Ngài,

Năm vần tỏ nỗi lưu đày đảo khơi.

 

                        ĐỨC HỘ PHÁP

Sắc son nhuộm tánh đượm màu tươi,

Hay dở khen chê để miệng người.

Đày đọa xét thân không hổ thẹn,

Sang vinh nghĩ phận quá buồn cười.

Vó kỳ từng trải đường nguy hiểm,

Cánh hộc quen chìu gió ngược xuôi.

Ước trả mảy may ơn Xã Tắc,

Nợ muôn đền một kể chi lời.

 

Đường Đạo gặp trời mơi hé bóng,

Bể khổ đầy lượn sóng văn minh.

Tiếp Đạo Ngài tỏ thạnh tình,

Họa vần mầng Đấng cứu tinh thay Trời.

 

                        Ngài CAO TIẾP ĐẠO

Màu sen Tây Vức ngắm thêm tươi,

Hỏi khách Hổn Nguơn đặng mấy người.

Ly hận ngày qua non ngó khóc,

Trùng hưng buổi hiện gió reo cười.

Cơ huyền trí định tan rồi hiệp,

Pháp tạo tay cầm ngược cũng xuôi.

Tỏ đặng nỗi mừng chia hạnh phúc,

Đá kia cũng gật để nên lời.

 

Đức HỘ PHÁP về nơi Tòa Thánh,

Vùng Nội Ô phong cảnh vui thay.

Trời Nam vọi bóng Cao Đài,

Điểm tô cơ Đạo trong ngoài thuần lương.

 

Mầng đại nghiệp Bát Nương giáng bút,

Mầng Ngài về hạnh phúc non sông.

HỘ PHÁP Ngài họa lại xong,

THƯỢNG SANH, VĂN PHÁP nối trong năm vần.

 

                        BÁT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

Đào Nguyên lại trổ trái hai lần,

Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.

Nam đảnh vít xa gươm xích quỉ,

Thiềm cung mở rộng cửa hà ngân.

Xuân Thu định vững ngôi lương tể,

Phất Chủ quét tan lũ nịnh thần.

Thổi khí vĩnh sanh lau Xã Tắc,

Dọn đường quốc thể định phong vân.

Đêm 15-8 Bính Tuất

 

                        ĐỨC HỘ PHÁP

Chông gai đường Đạo mảng dò lần,

Từ bước ta bà trở cố lân.

Biển Thái vừa êm hơi súng nổ,

Gành Nam kế lóng tiếng chuông ngân.

Buồm thuyền tế độ xao mơ mộng,

Gió hạc chiêu tiên giục định thần.

Cam Lộ kìa ai dành để sẵn,

Cầm dương rửa sạch nét phù vân.

 

                        ĐỨC THƯỢNG SANH

Dựng gầy Xã Tắc bấy nhiêu lần,

Mong mỏi vùng Nam đặng thấy lân.

Đảnh Việt Trời che gìn cảnh trí,

Thuyền Nam Đạo vững lướt dòng ngân.

Đài hoa tạc để gương anh kiệt,

Thiên khiển dành riêng đám tội thần.

Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,

Làm trai tua vẹn chí thanh vân.

 

                        Ngài VĂN PHÁP

Đuốc Đạo sáng soi đã mấy lần,

Hỡi người thiền thị chí thôn lân.

Bình tâm tịnh mẫn trau gương huệ,

Trì chí thanh cao lóng tiếng ngân.

Chuông Thánh trí hồn reo đảnh Việt,

Thang mây đưa bước đến non thần.

Vầy đoàn hồng lạc cùng tay nắm,

Lũ lượt kéo vào động Bạch vân.

 

Ngài TIẾP ĐẠO họa vần thuận nghịch,

Đọc ngược mà giải thích càng hay.

Như vầy gẫm chẳng mấy ai,

Lời văn thâm thúy thanh bay tuyệt trần.

 

                        Ngài CAO TIẾP ĐẠO

Qua Thu bước khổ cảnh thay lần,

Trị quốc điềm đem hiện thấy lân.

Hòa ái chạm gương nêu trước tử,

Nghĩa nhân bia dấu tạc kiều ngân.

Ca hoàn Việt, lập an ngôi Thánh,

Định đảnh Nam, vang tiếng hạc thần.

Nhà, Nước, Đạo xong gầy phúc hậu,

Hoa tiên bức chép rạng đài vân.

 

HỘ PHÁP Ngài ái nhân xả kỷ,

Muốn giống nòi thuần túy Quốc Gia.

Hồi hương hơn bốn năm qua,

Bắc du nhớ lúc Ngài ra Hải Phòng.

 

Đoàn bô lão thảy đồng quì xuống,

Tiếp Đức Ngài ý muốn xin thi.

Đỡ lên nhưng vẫn nằn nì,

Ngài bèn lưu bút phát huy tinh thần.

 

                        ĐỨC HỘ PHÁP

                        Tinh Thần Đại Đoàn Kết

                        Non nước hồn thiêng đã tỉnh dần,

Xuân Thu xưa nay đổi Thu Xuân.

Nam Phong đỡ vững xa thơ Hán,

Bắc tục xô nghiêng đảnh nghiệp Tần.

Bác ái là đề thi tiến hóa,

Nghĩa nhân ấy mục định duy tân.

Thiên thời Địa lợi đôi điều sẵn,

Chỉ thiếu hòa nhân để hợp quần.

Canh Dần (1950)

Cụ Lục Lang vui mầng chi xiết,

Tiếp Đức Ngài buổi tiệc nghiêm trang.

Lời thơ Cụ họa như than,

Chiến tranh diễn mãi cơ hàn người dân.

 

                        LỤC LANG BẮC VIỆT họa vận

                        Liếc mắt nhìn thời cuộc

Hội nghị bao ben mắt tỏ dần,

Mặc dầu súng nổ suốt năm xuân.

Dân đen trốn nhủi vì binh sở,

Chánh Phủ lo ngăn giết giặc Tần.

Tàu bán đồng bào rằng kiến thiết,

Tây đè dân tộc gọi canh tân.

Riêng ta người Việt ra tranh đấu,

Độc lập chờ ta biết hợp quần.

 

Phái đoàn viếng Bắc Phần hiện có,

Tiếp Đạo Ngài “họa” rõ những lời.

Như chuông cảnh tỉnh khách đời,

Dinh hư tìm hiểu lẽ Trời tu thân.

 

                        NGÀI TIẾP ĐẠO

Thắm giọt hồng ân định địa dần,

Vẽ tươi Quốc Sử bốn nghìn xuân.

Phân tranh kẻ muốn dùng oai kiệt,

Đoàn kết ta toan diệt bạo Tần.

Thoát khổ sẵn chờ Thuyền Bát Nhã,

Tạo đời há thiếu mặt hùng tân.

Trời nam gặp hội nâng hồn nước,

Chung sức nêu cao nghĩa ái quần.

 

Nhìn đất Việt không ngừng khói lửa,

Nghĩ giống nòi chan chứa niềm thương.

Bắc Nam Đạo vạch con đường,

Đệ huynh đoàn kết là phương tối cần.

 

Đức HỘ PHÁP tinh thần hằng sống,

Thấy nước non biến động can qua,

Âu du phó hội chủ hòa[26],

Giảng cho dân tộc nước nhà yêu thương.

 

                        Đức HỘ PHÁP

Cởi gió tuông mây đến Pháp Triều,

Đo lường vận nước được bao nhiêu.

Tương lai gởi phận tay tha chủng,

Mai một thương thân nhóm Việt Kiều.

Cứu quốc khó trông mong gặp Thuấn,

An dân hết sở cậy nhờ Nghiêu.

Cho hay chánh nghĩa chưa cân đúng,

Máu mủ vì thương phải đánh liều[27].

 

Nạn dân tộc còn nhiều đau khổ,

Một nước mà lãnh thổ chia hai.

Non sông cảm nghĩa Đức Ngài,

Nặng tình máu mủ khó thay cơ Trời.

 

Đức HỘ PHÁP để lời thương xót,

Nạn tương tàn đã trót mấy thu.

Đòi phen quyết sạch vận trù,

Những mong dân nước Đại Cù tự do.

 

Qua Đông Kinh thỉnh tro Cường Để[28],

Nâng hồn thiêng bảo vệ non sông.

Nặng tình nòi giống Lạc Long,

Thơ Ngài ý nghĩa tỏ trong ái hòa.

 

                        ĐỨC HỘ PHÁP

Vẫn gánh non sông đến tuổi già,

Đòn tam làm mạnh thế tài ba.

Đôi phen kiên nhẫn dìu hồn nước,

Lắm lúc truân chuyên giữ Đạo nhà.

Tình đức cổ truyền trừ giặc loạn,

Nghĩa nhân pháp bửu dẹp can qua.

Hồng ân đã sẵn làm thao lược,

Ích quốc an dân dụng chữ hòa.

 

Cơ thử thách diễn ra đáo để,

Nước non nhà Ngài sẽ tạm rời.

Sang nương Cam-Bốt (Cambodge) là nơi[29],

Tìm phương cứu vãn Đạo Trời đương nhiên.

 

Quyết lèo lái con thuyền Bát Nhã,

Vượt trùng dương bể cả mênh mang.

Thương đời sống cảnh lầm than,

Nhiều thơ Ngài ở Nam Vang gởi về.

 

Qua Kỷ Hợi vừa nghe công điện,

Báo tin Ngài triều kiến Ngọc Hư[30].

Ngài còn di chúc tâm thư,

Nghe thôi toàn Đạo suy tư ái hoài.

 

Đợi thống nhứt Liên Đài về nước,

Cơ khủng hoảng lần lượt trải qua.

Lễ kỷ niệm tổ chức ra,

Toàn Đạo cúng tế thật là vẻ vang.

 

Bao năm Ngài tịch ở Tần bang,

Kỷ niệm hôm nay được rỡ ràng.

Rừng Đạo diềm dà mây Thái Lĩnh,

Sóng người cuồn cuộn nước Long Giang.

Ngân nga Điện Thánh chuông sầu giục,

Ồ ạt gành Nam lượn thảm tràn.

Nếu cảnh thanh bình mau thực hiện,

Nhờ ơn HỘ PHÁP chuyển Linh Quang.

10-4-Giáp Thìn (1964)

 

Cả nữ nam hoàn toàn chiêm ngưỡng,

Hội Thánh lo biểu tượng Thánh hình.

Mười ba tháng chạp Giáp Thìn,

Mừng lễ an vị phỉ tình hoài mong.

 

Võ Thành Lượng tỏ lòng tôn kính,

Nhìn tượng Ngài cảm vịnh mấy vần.

Trạng hình một Đấng Siêu Nhân,

Uy nghi cốt cách tinh thần Hiệp Thiên.

 

                        VÕ THÀNH LƯỢNG

Đức Ngài HỘ PHÁP sớm du tiên,

Thánh cốt hôm nay thượng án tiền.

Đứng Thất Đầu Xà trừ nghiệp chướng,

Qui Tam Giáo Đạo phổ Chơn Truyền.

Linh hồn tuy đã chầu Kim Khuyết,

Sứ mạng vẫn còn chưởng Hiệp Thiên.

Vạn đại gương nêu lòa Nhựt, Nguyệt,

Môn sanh sùng kính Đức Khai Nguyên.

13-12 Giáp Thìn

 

HỘ PHÁP ĐƯỜNG án tiền cũng dựng,

Tượng Đức Ngài còn đứng thay Trời.

Phép lành ban khắp Đạo Đời,

Cứu an nhân loại trong thời Hạ Nguơn.

 

                        Đền thờ PHẬT MẪU[31]

Đền thờ PHẬT MẪU

Đền PHẬT MẪU bao lơn trông thấy,

Đắp tương trưng hăm mấy khuôn hình.

Những trang chí hiếu tạc gìn,

Kể từ bên tả mắt nhìn chuyển qua.

 

                        Tích NGU THUẤN

Ngu Thuấn khổ vì cha Cổ Tẩu,

Nơi Lịch Sơn ruộng xấu đem cày.

Trời xuôi chim cấy voi cày,

Lòng thương cha mẹ đêm ngày vái van.

 

                        Tích HẰNG ĐẠI nhà HÁN

Hằng Đại xưa cũng hàng Thiên Tử,

Sắc thuốc rồi nếm thử mới dâng.

Ba năm nuôi mẹ ân cần,

Áo quên mở dải tấm thân nào màng.

 

                        Tích CHÂU THỌ XƯƠNG nhà TỐNG

Châu Thọ Xương từ quan tìm mẹ,

Nhớ công ơn sanh trẻ dãi dầu.

Bởi Bà đích mẫu hiểm sâu,

Đuổi mẹ đến quận Đồng Châu nước Tần.

Mới bảy tuổi cam thân khờ dại,

Năm chục năm nay lại tìm ra.

Cúi đầu thỉnh mẹ lệ nhòa,

Được về nuôi dưỡng tuổi đà bảy mươi.

 

                        Tích VƯƠNG TƯỜNG nhà TẤN

Vương Tường cổi trần người nằm giá,

Váng nước tan bắt cá Chép dâng.

Ghét kia kế mẫu nguôi dần,

Mẹ cha thương lại bội phần hơn xưa.

 

                        Tích NGÔ MÃNH nhà TẤN

Tấn ngô Mãnh tuổi vừa lên tám,

Đêm nằm trần cho đám muỗi hun.

Nhà nghèo cha mẹ chẳng mùng,

Muỗi cắn không đuổi sợ tung vô giường.

 

                        Tích HOÀNG HƯƠNG nhà ĐÔNG HÁN

Mùa hè nực Hoàng Hương quạt gối,

Đông lạnh thì đêm tối ấp mền.

Công ơn thân mẫu quyết đền,

Mới vừa chín tuổi chạnh niềm mồ côi.

 

Nhớ cha mẹ khóc thôi thảm thiết,

Thái Thú nghe chi xiết xót thương.

Sớ tâu Vua Hán tỏ tường,

Bèn ban chữ hiếu tấm gương để đời.

 

                        Tích ĐƯỜNG THỊ vợ Họ THÔI

Đường thị hiếu tắm thời lau vú,

Nuôi mẹ chồng già bú mấy niên.

Nhớ ơn gần thác mẹ nguyền,

Họ Thôi sau lắm gương hiền cháu dâu.

 

                        Tích KHƯƠNG THỊ nhà HỚN

Hán Khương Thị dãi dầu chồng vợ,

Mẹ thích dùng nước ở sông xa.

Cả hai hiếu với mẹ già,

Cá tươi nước ngọt kiếm mà về dâng.

 

Đông lạnh buốt tấm thân nào ngại,

Trời thương người soi tại mé thềm.

Mạch phun có cá khỏi tìm,

Sẵn đây nuôi mẹ ngày thêm vẹn tròn.

 

                        Tích ĐINH LAN nhà HÁN

Đinh Lang hiếu sắc son như một,

Thương mẹ cha tạc cốt lên thờ.

Thần hồn chẳng dám trễ giờ,

Nhơn khi có việc tình cờ đi xa.

 

Rồi đến lúc về nhà trông lại,

Thấy tượng thờ lệ chảy ướt dầm.

Hỏi vợ rằng: lấy kim châm,

Đau lòng hiếu tử sắt cầm phân ly.

 

                        Tích LỤC TÍCH nhà ĐÔNG HÁN

Tuổi nên sáu hiếu nhi Lục Tích,

Viên Thuật mời đãi quít cho dùng.

Ăn ngon nhớ mẹ khôn cùng,

Bởi cớ nên chẳng ngại ngùng nghĩ ra.

Bốc đôi quả dấu mà tay áo,

Lúc xá về lăn ráo ra ngoài.

Viên Thuật bảo cắp thế nầy,

Tích, thưa rằng mẹ tôi rày rất ưa.

 

                        Tích VƯƠNG BẦU nước NGỤY

Vương Bầu hiếu cơn mưa nghe sấm,

Tiếng vang lên chạy cắm ra mồ.

Ôm mồ khóc vái nhỏ to,

Có con đây mẹ đừng lo sấm Trời.

Xưa khóc cha miệng đời còn nhắc,

Cây bên mồ nước mắt rỉ tươi.

Mến gương Nhà Tấn lại dời,

Phong Quan chẳng chịu ít người như Ông.

 

                        Tích MẠNH TÔNG đời TAM QUỐC

Ôm tre khóc Mạnh Tông hiếu mẹ,

Động lòng Trời đất nẻ dò măng.

Nghịch mùa vật kiếm khó khăn,

Mẹ thèm được bát canh ăn bịnh lành.

 

                        Tích QUÁCH CỰ nhà HÁN

Quách Cự hiếu, nghèo đành chôn trẻ,

Nhịn cháo ăn thân mẹ thất thường.

Bàn nhau sanh đẻ còn đương,

Vợ chồng hiếu mẹ cùng đường phải toan.

 

Vừa đào huyệt gặp vàng một hủ,

Thấy chữ đề Quách Cự cho mầy[32].

Phước Trời chồng vợ vui vầy,

Nhờ đó nuôi mẹ đủ đầy thức ngon.

 

                        Tích DƯƠNG HƯƠNG nhà TẤN

Dương Hương hiếu tuổi còn mười bốn,

Theo hầu cha thăm chốn ruộng sằn.

Giữa đường gặp cọp nhe răng,

Vồ cha vừa thấy đánh hăng cọp dừng.

 

                        Tích THÁI THUẬN nhà HÁN

Thái Thuận đói vào rừng lượm trái,

Thứ dở ngon ngồi lại chia ra.

Xích My tướng giặc đi qua,

Thấy lạ mới hỏi sao mà thế ni.

 

Thưa trái ngon dành thì cho mẹ,

Dâu đỏ chua riêng để tôi dùng.

Giặc nghe khen hiếu khôn cùng,

Đùi trâu đấu gạo sai quân biếu liền.

 

                        Tích MẪN TỬ KHIÊN đời XUÂN THU

Áo hoa lao Tử Khiên mặc vá,

Đẩy xe cha lạnh quá rời tay.

Em khờ kế mẫu sanh hai,

Sợ cha đuổi mẹ lạnh rày cả ba.

 

                        Tích TỬ LỘ nước LỖ

Tử Lộ nghèo đường xa đội gạo,

Nuôi mẹ cha vẹn đạo làm con,

Lúc vinh đầy dẫy thức ngon,

Tiếc vì cha mẹ chẳng còn hưởng chung.

 

Muốn đội gạo trùng phùng như trước,

Nấu canh rau ước được ngày xưa.

Rằng: xanh cỏ nhớ ơn mưa,

Thương cây muốn lặng gió chưa chịu ngừng.

 

                        Tích LÃO LAI nước SỞ

Lão Lai mặc áo quần như trẻ,

Hát múa cho cha mẹ nôn cười.

                        Tuổi Ông tuy đã bảy mươi,

                        Dâng nước giả trợt khóc thời oa oa.

 

Làm như thế mẹ cha quên nghĩ,

Tưởng chừng Ông niên kỷ còn thơ.

Hiếu từ thuở bé đến giờ,

Giúp vui lại cũng trọn thờ mẹ cha.

 

                        Tích DIÊM TỬ nhà CHÂU

Diêm Tử, song thân lòa thèm sữa,

Đội lốt hươu thường bữa vào non.

Gặp hươu mẹ, giả hươu con,

Lân la vắt lấy sữa ngon về dùng.

 

Thợ săn thấy giương cung tính bắn,

Khoát lốt ra đứng thẳng người lên.

Thưa rằng: Đạo hiếu muốn đền,

Giả làm như vậy mới nên thế mà.

 

                        Tích ĐỔNG VĨNH nhà HẬU HÁN

Đổng Vĩnh nghèo cơn cha tạ thế,

Vay tiền chôn nào nệ bán mình.

Khi xong để bước thượng trình,

Giữa đường Tiên Nữ trá hình hứa duyên.

 

Phụ dệt gấm trừ tiền trái chủ,

Một tháng mà gấm đủ ba trăm[33].

Hẹn xong sẽ kết sắt cầm,

Chừng về biến mất cũng nhằm lối đi.

 

                        Tích GIANG CÁCH nhà HÁN

Giang Cách cõng mẹ thì gặp giặc,

Khóc vang lên nước mắt chan hòa.

Thưa rằng tôi có mẹ già,

Bắt tôi thì đặng ai mà dưỡng nuôi.

 

Giặc nghe nói ngậm ngùi thôi bắt,

Được tha, mừng cõng thoắt mẹ đi.

Dìu nhau về đất Hạ Bì,

Làm mướn nuôi mẹ ngày thì ấm no.

 

                        Tích SỨU KÌM LÂU nước TỀ

Sứu Kìm Lâu phát lo trong dạ,

Vội từ quan giục giã hồi hương.

Rước thầy chữa bịnh thung đường,

Nếm phẩn thấy ngọt thế thường bịnh nguy.

 

Đêm ba lượt cầu thì Thượng Đế,

Xin hiến mình chết thế cho cha.

Thẻ vàng mấy chữ hiện ra,

Sắc Trời cho đó được mà bình an.

 

                        Tích HUỲNH ĐÌNH KIÊN đời ĐƯỜNG

Huỳnh Đình Kiên làm quan Thái Sử,

Rửa bình tiêu phụng sự mẹ cha.

Biết bao tôi tớ trong nhà,

Chẳng cho ai rửa, hiếu mà riêng Ông.

 

                        Tích TĂNG SÂM nước LỖ

Tăng Sâm nghèo hết lòng thờ mẹ,

Chọn thức ăn bữa sẽ được ngon.

Dùng xong hỏi mẹ vật còn,

Cho ai mẹ bảo dù tròn đến ngay.

\

Các truyện hiếu giải bày tóm tắt,

Rảo quanh thềm để mắt nhìn lên.

Giáp vòng Hậu Điện đôi bên,

Trung nghĩa hiền đức danh nêu khuyến đời.

Hiên ngoài đếm sáu mươi bảy tích,

Đạo chọn gương hữu ích làm nền.

Đắp hình sứ điểu nóc Đền[34],

Trước sân cột Phướn trông lên rõ ràng.

Vào ngay cửa nhìn thông khu ốc,

Hai đường lên tận gốc lầu chuông.

Tứ Linh bên đắp chín khuôn,

Giữa chia chín khoản luôn luôn sao ngời.

Khảm thủy tinh trên thời nhấp nhóa,

Tượng tầng Trời Tạo Hóa Cửu Thiên.

Tả hữu thờ các tiền hiền,

Xả thân vì Đạo lưu truyền tuổi tên.

Giàn Lỗ Bộ đôi bên Chánh Điện,

Bát Cảnh Cung ngôi hiện Kim Bàn.

Đức PHẬT MẪU ngự Thanh Loan,

Cửu tiên cầm báu nghiêm trang đứng chầu.

 

 

Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật

Bốn Ngọc Nữ sau hầu Đức Mẹ[35],

Cảnh tôn thờ rạng vẻ uy linh.

Dưới hình THƯỢNG PHẨM cung nghinh,

Với Đông Phương Sóc niềm tin Hớn Đài.

Tiếp đào tiên đôi tay dâng thẳng,

Tích xưa còn ghi hẳn nơi đây[36].

Hớn Võ Đế rước thế nầy,

THƯỢNG PHẨM nay thỉnh đủ đầy ân quang.

 

Nhờ Thất Nương vén màn Đạo cả,

Buổi Tam Kỳ giáo hóa Nguyên Nhân.

Chín cô nhiệm vụ chín tầng,

Độ hồn khách tục về lần Đế Hương

 

                        Cô NHỨT NƯƠNG

Cô Nhứt Nương coi vườn Ngạn Uyển,

Cầm Tỳ Bà điều khiển cơ sinh.

Mỗi đóa hoa, mỗi chơn linh,

Trong vòng luân chuyển mắt nhìn biết ngay.

 

Quyền Chưởng Quản trong tay nắm giữ,

Các Nguyên Nhân sanh, tử hãn toàn.

Từ cõi Thiên, chí Dinh Hoàn,

Hoa nở đầu kiếp, hoa tàn hồn qui.

 

                        Cô NHỊ NƯƠNG

Cô Nhị Nương từ bi độ rỗi,

Cầm Lư Hương mở hội trường sinh.

Bàn Đào mời đủ Chư Linh,

Ngân Kiều đỡ gót về trình Ngọc Hư.

 

                        Cô TAM NƯƠNG

Cô Tam Nương thuyền từ nhẹ thả,

Cầm Long Tu độ cả khách trần.

Biển mê Bát Nhã dò lần,

Thanh Thiên mở lối Chơn Thần qui nguyên.

 

                        Cô TỨ NƯƠNG

Cô Tứ Nương cầm riêng Kim Bản,

Cõi Huỳnh Thiên điểm rạng văn tài.

Nắm quyền giám khảo trong tay,

Chọn người đức hạnh học hay chấm vào.

 

                        Cô NGŨ NƯƠNG

Cô Ngũ Nương đưa cao Như Ý,

Ra lịnh cùng Chư vị Thần, Tiên.

Tiếp hồn về cõi Xích Thiên,

Trông kinh vô tự quả duyên mỹ miều.

 

                        Cô LỤC NƯƠNG

Cô Lục Nương Phướn Tiêu Diêu nắm,

Để truy hồn say đắm biển mê.

Cõi Kim Thiên, Khổng Tước kề,

Hữu căn tiếp dẫn hồn về Tây Phương.

 

                        Cô THẤT NƯƠNG

Cầm Hoa Sen Thất Nương nguyện rỗi,

Cõi Hạo Nhiên mở lối vĩnh tồn.

Âm Quang nhiệm vụ độ hồn,

Tái sanh nương Đạo CHÍ TÔN siêu phàm.

 

 

                    BÁT NƯƠNG

Cô Bát Nương Hoa Lam tay xách,

Nhiệm vụ còn độ khách hồng trần.

Phi Tưởng Thiên, tiếp Chơn Thần,

Đẩu Vân đỡ gót về gần Cung Diêu.

 

                        Cô CỬU NƯƠNG

Cô Cửu Nương Ống Tiêu giục trổi,

Giác ngộ hồn cải hối tu thân.

Nghề hay nghiệp giỏi trong trần,

Cùng nhờ Cửu Vị tinh thần mở mang.

\

DIÊU TRÌ KIM MẪU huệ ân ban,

Hiện rõ nơi đây cõi Niết Bàn.

Cửu Vị điều hành cơ tiến hóa,

Bát hồn nhuần đượm phước sanh quang.

Lọc lừa Thánh chất Tam Kỳ độ,

Đưa rước Tiên căn Bát Nhã thoàn.

Cửu nhị Nguyên Nhân còn tại thế,

Mừng nay Đức mẹ ngự trần gian.

 

Mỗi Trung Thu khai Bàn Đào hội,

Thể Pháp bày tương đối Thiêng Liêng.

Đức Mẹ sanh cả Phật, Tiên,

Nhơn loài dưới thế không riêng Kim Bồn.

 

                         BÁ HUÊ VIÊN

Bá Huê Viên

Xem khắp hết bước dồn ra ngõ,

Bá Huê Viên cây cỏ trập trùng.

Ngàn hồng muôn tía khoe vun,

Cội Âm Chất tại đôi khung cửa vào.

 

Đường Bát Quái[37] phô màu rực rỡ,

Kiển Tứ Linh kiểu vở thật hay.

Hồ sen lá trải xinh thay,

Kế Hòn Non Bộ lưng day Nhà Đèn.

 

Tòa Hải Thạch bông chen sắc trắng,

Tiết xuân quang ánh nắng soi ngần.

Riêng xem phấn khởi tinh thần,

Chơn Tâm đề vịnh mấy vần như sau.

 

                            CHƠN TÂM

Ngàn hồng muôn tía thắm tươi màu,

Tòa Thánh Hoa Viên đẹp biết bao.

Kìa chậu rồng, lân, qui, phụng, hạc,

Nọ bồn lan, huệ, trúc, mai, đào.

Diềm dà cửa Phật nhành dương xủ,

Đồ sộ non thần núi giả cao.

Ngạn Uyển trần gian đây có phải,

Thừa nhàn du khách ngắm tiêu dao.

 

Thật cảnh trí khác nào tranh vẽ,

Đứng nhìn càng mát mẽ vui thay.

Cỏ cây trăm thức hoa cài,

Để cho du khách ngày ngày xem chung.

 

Cội Âm Chất hiện tại Môn Trung,

Cảnh Bá Huê Viên chiếm một vùng.

Bát Quái đường chen màu thắm rực,

Tứ Linh cụm uốn gió lay rung.

Hồ sen mỗi sớm chân gieo nhẹ,

Non Bộ từ tầng đá xấp vun.

Hải Thạch tòa kia phô vẻ ngọc,

Trước đền PHẬT MẪU đẹp khôn cùng.

 

Du Khách đến tháp tùng dạo mãi,

Mãn nhãn rồi chẩm rải lui ra.

Còn nhiều dinh thự kia là,

Bên hữu mắt thấy một tòa kinh dinh.

 

 

                        Văn phòng HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO[38]

Văn phòng Hội Thánh Ngoại Giáo
sau đổi thành Viện Đại học Cao Đài

Văn phòng ngoại giáo độ nhân sinh,

Hội Thánh riêng đây cảnh đẹp nhìn.

Lầu ngắm bốn bề cao vòi vọi,

Cửa vào đôi ngõ rộng thinh thinh.

Xuất dương Đạo mở nguồn chân lý,

Giải khổ Đời tìm Đấng Chí Linh.

Nương đuốc từ bi dìu vạn chủng,

Gồm về một mối chốn Tây Kinh.

 

Đến ngã tư đứng nhìn sang tả,

Cửa số mười ngoài đã làm xong.

Thái Hòa Lộ cặp mé trong,

Sở Hồ, Tu Bổ phân công dựng gầy.

 

NGỌC TRANG THANH lộ nầy lại có,

Đài Phát Thanh cửa ngõ quay ra.

Mậu Thân cuộc biến vừa qua,

Một tầng bị sập nay đà trùng tu[39]

 

                        ĐÀI PHÁT THANH

Cơ quan Phát Thanh

Phát Thanh Đài tạo rất công phu,

Nhứt bổn, quán thông tán vạn thù.

Hoằng Hóa Chơn Truyền luồng sóng điện,

Phổ Thông Giáo Lý bước đường tu.

Ai mà sớm hiểu duyên may mắn,

Lời nói nhanh hơn gió vụt vù.

Kêu gọi toàn cầu mau thức tỉnh,

Lóng nghe Linh Phụng gáy Tây Chu.

 

Vui nếp sống Đường Ngu thuở trước,

Nhìn phía Nam Lộ Phước Đức Cù.

Người sanh hoạt, kẻ giao du,

Hoa mầu riêng chiếm một khu rộng dài.

 

Cửa số bảy nhìn ngay trước mắt,

Lộ HỘ PHÁP phăng phắc chạy ra.

Y Viện Hành Chánh đây mà,

Oai Linh Tiên Lộ lần qua cạnh nầy.

 

                        VĂN PHÒNG BAN THẾ ĐẠO

Văn phòng Ban Thế Đạo

Ban Thế Đạo đang xây bên tả,

Những Hiền Tài nay đã thọ phong.

Cùng nhau lo cất văn phòng,

Đầu xuân Kỷ Dậu sắp xong giàn ngoài.

 

Trong Ban Thế Đạo những Hiền Tài,

Nay cất văn phòng ngắm đẹp thay.

Cộng sự gồm toàn người trí thức,

Chung tâm khêu tỏ đuốc Cao Đài.

Phế đời chưa trọn tinh thần có,

Lập đức còn nhiều ý kiến hay.

Mừng thấy quí ông bền chí cả,

Ơn Thầy nợ nước trĩu đôi vai.

 

                        TÔNG ĐẠO TẦN NHƠN

Tông Đạo Tần Nhơn

Kìa bên hữu bảng ngoài kiến tạo,

Đề văn phòng Tông Đạo Tần Nhơn.

Thiện Tâm cảm tác mấy vần,

Khen công khéo tạo có phần trang nghiêm.

 

                        THIỆN TÂM

Đẹp đẽ trông xem tấm bảng vàng,

Đây là Tông Đạo của Tần Nhơn.

Văn phòng kiến trúc theo khoa học,

Hình thức phô trương giống cửa thoàn.

Đưa xác tục vùi tam Xích Thổ,

Độ hồn linh đến Cửu Trùng Thiên.

Bè từ Di Lặc sông mê thả,

Dìu khách trầm luân lánh cửu tuyền.

 

 

Nhà Thuyền Bát Nhã

 

 

                        KHÁCH ĐÌNH

Bên kia lộ thấy liền một nóc,

Dãy Khách Đình nằm dọc ra sau.

Lâm chung khách được đem vào,

Độ hồn về cõi Thiên tào phục sinh.

 

Đôi cửa song song đó Khách Đình,

Chư Vong vào nghỉ để nghe kinh.

Chờ thuyền tế độ về tiên cảnh,

Lóng tiếng cầu siêu diệt khổ hình.

Lánh tục đoạn lìa xa tục trái,

Tầm chơn vịn níu lấy Chơn Linh.

Quán trần ví biết là nơi tạm,

Thế giới ba ngàn mới phục sinh.

 

Người hiểu Đạo càng tin Giáo Lý,

Cõi trần này sanh ký tử qui,

Xác hữu hình, hồn vô vi,

Ráng làm âm chất làm thì mai sau.

 

Góc ngã tư Lộ CAO THƯỢNG PHẨM,

Dãy Học Đường kia ngắm xinh thay.

Giáo Sư THƯỢNG CẢNH vịnh bài,

Dưới đây xin chép đề tài nêu lên

 

                        ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG
                        Giáo Sư THƯỢNG CẢNH THANH

                        (Q, Thượng Thống Học Viện)

Ba chục gian trường mới tạo nên,

Nguy nga đồ sộ cảnh thêm bền.

Mái tôn lạc trợ che lòa nóc,

Viên gạch đồng tâm đúc vững nền.

Văn hóa phát huy phương dạy trẻ,

Công trình xây dựng sử đề tên.

Văn phòng Đạo Đức tăng huê mỹ,

Giồi luyện tinh thần chóng vượt lên.

15-3-1965

 

Các em muốn danh rền Đạo Đức,

Dầu muối dưa gắng sức giồi mài.

Học hành tin ở tương lai,

Nhờ có Hội Thánh trong ngoài đảm đương.

 

 

Đạo Đức Học Đường

 

Hoa xxx xxx xanh Học Đường,

Từng đoàn én trắng tỏa nghìn phương.

Xúm xít đua nhau dưới mái trường,

Nắng ấm ngày xuân phô vẻ ngọc.

Mầm non sân hạnh ngát hơi hương.

Chiều tà lũ lượt xung xăng nói,

Chí muốn tung cao nước Việt Thường...

Nhờ Thầy, Cô tìm phương giáo dục,

Sẵn trường nhà un đúc tương lai.

 

Cửa số bốn ngó vào bên cạnh,

Là văn phòng Hội Thánh Đường nhơn.

Lầu xây lên mới một tầng,

Chung bồi đại nghiệp tinh thần bền trau.

 

 

                    Văn phòng HỘI THÁNH ĐƯỜNG NHƠN

 

Hội Thánh Đường Nhơn ngưỡng cửa vào,

Trường tu mở lối để dìu nhau.

Góp công xây cất văn phòng đẹp,

Lập đức nương nhờ mối Đạo Cao.

Hòa ái chung tâm lo hiệp chủng,

Tương quan mật thiết thể đồng bào.

Duyên may khách gặp Tam Kỳ độ,

Nâng đuốc từ bi rọi kẻ sau.

 

Tình đồng đạo khác nào cốt nhục,

CHÍ TÔN ban huệ phúc đượm nhuần.

Hữu phòng Tiếp Lễ Nhạc Quân,

Phía tả Tông Đạo Bắc Phần đang xây.

 

                        BẮC TÔNG ĐẠO

Văn phòng Bắc Tông Đạo

Quý cụ duyên may ngộ Đạo Thầy,

Bắc Tông thành lập hiện nơi đây.

Phòng văn cổng mới vừa tô điểm,

Cội phúc người nay xúm dựng gầy.

Một sớm đã bền công khó nhọc,

Ngàn sau còn mãi tiếng thơm lây.

Dọn đường bao kẻ noi chân bước,

Ân huệ chung nhau gội đủ đầy.

 

Đoàn Hướng Đạo bên đây luôn dãy,

Kế Trung Tông hiện tại từ lâu.

Người Trung am hiểu Đạo Mầu,

Cùng nhau chung sức ngõ hầu lập công.

 

 

                        TRUNG TÔNG ĐẠO

Văn phòng Trung Tông Đạo

Mát mẽ xanh um dưới nắng hồng,

Hơi xuân đầm ấm cảnh Trung Tông.

Vườn cây bốn mặt buông rèm gió,

Nóc ngói ba gian dợn vảy rồng.

Kiến tạo góp phần toàn Tín Hữu,

Điểm tô nhờ sức cả Thiên Phong.

Dìu đường chủng tộc tìm Chơn Lý,

Hầu để lo chung thuyết Đại Đồng.

 

Đường THƯỢNG PHẨM quanh vòng thấy rõ,

PHỐI THÁNH MÀNG lộ nhỏ xuyên ngang.

Danh nêu công quả vẹn toàn,

Tánh đức nhẫn nại sáng hàng Thánh Nhân.

 

                        Văn phòng HỘI THÁNH PHƯỚC THIỆN

Văn phòng Hội Thánh Phước Thiện

Cảnh Phước Thiện đây lần đưa mắt,

Tả ngôi nhà Chức Sắc phái Nam.

Đoái xem bên hữu không nhàm,

Hội Thánh Phước Thiện việc làm biểu dương.

 

Nào Dưỡng Lão, Dưỡng Đường xây cất,

Cấp tế người tàn tật, cô nhi.

Thật hành chủ nghĩa từ bi,

Các công, kỹ nghệ lo thì khuếch trương.

 

Để hàn gắn tình thương nhân loại,

Cơ bảo tồn mãi mãi lưu truyền.

CHƠN NHƠN đối vị cầm quyền[40],

CHƯỞNG QUẢN Cửu Viện mối giềng được an.

 

Ngôi PHẬT TỬ là hàng cao nhất,

Còn dưới thì MINH ĐỨC, TÂN DÂN.

ĐẠO LUẬT lập năm Mậu Dần,

Thập Nhị Đẳng Cấp góp phần lập công.

 

Biểu dương Hội Thánh một văn phòng,

Phước Thiện ơn nhuần khắp núi sông.

Hạt giống bảo tồn gầy đất Việt,

Ngọn cờ cứu khổ rọi trời Đông.

Từ bi mở lối dìu Nhân Loại,

Bác ái nêu gương lập Đại Đồng.

Tế độ nhịp cầu liền bốn biển,

Tạo đời Thánh Đức hưởng thuần phong.

 

Ngang bên tả văn phòng Y Viện,

Bộ Lễ kề biển hiệu không xa.

                       Lộ THƯỢNG TRUNG NHỰT chạy ra,

                        Phía ngoài là cửa số ba rõ ràng.

 

Nhà Linh Đức đôi gian bên cạnh,

Sở may nầy Hành Chánh chu toàn,

Bên hữu một dãy thênh thang,

Là sở Phước Thiện mở mang việc trồng.

 

Góc ngã tư văn phòng phái nữ,

Chức Sắc đương hành sự đông vầy.

Phước Thiện nữ phái là đây,

THÁI THƠ THANH lộ trước nầy ngang qua.

 

Giáp vòng ngắm đều hòa phong cảnh,

Thoại khí trùm Điện Thánh thơm lây.

Rào chùa bốn mặt đã xây,

Chia thành chín cửa đông, tây ra vào.

 

Sự lược giải biết bao cân nhắc,

Thắng cảnh nầy trước mắt Nhơn Sanh.

Riêng đây chẳng dám tập tành,

Chỉ dâng lời dạy diễn thành mấy chương.

Kết đề tổng vịnh đại cương,

Mong chư Độc Giả bốn phương niệm tình.

Góp phần tô điểm thêm xinh.

\

 

                    TỔNG VỊNH

Thánh Địa trông dường Bạch Ngọc Kinh,

Hiệp Thiên nắm giữ luật công bình.

Cửu Trùng phổ hóa toàn Nhân Loại,

Phước Thiện bảo tồn cả Chúng Sinh.

Đài ngự CHÍ TÔN lòa thoại khí,

Ngôi thờ PHẬT MẪU hiệp nguyên linh.

Xuất dương sớm được truyền Chơn Giáo,

Vạn Quốc đua nhau đến Tổ Đình.

Tòa Thánh Tây Ninh
Ngày 9 tháng 3 năm Kỷ Dậu
(DL 25-4-1969)

Soạn Giả HUỆ PHONG

                        Vịnh cảnh “Tòa Thánh Tây Ninh”

                                30/9 năm Kỷ Dậu

                            Thi

Lồng lộng Trời Nam độc nhứt Tòa,

Thể hình Bạch Ngọc cảnh nguy nga.

Cửu Trùng diệu quyết tam thanh rạng,

Bát Quái linh lung vạn pháp lòa.

Cao Thượng Chí Tôn truyền bửu nhãn,

Đài tiền Tiên, Phật ngư vân xa.

Hiệp Thiên cửa Thánh nghinh thần khách,

Đại Đạo hoằng khai thế giới hòa.

Giáo sư NGỌC NGHIỆP THANH

                    Tòa Thánh Tây Ninh
                    Cảm vịnh

Tòa Thánh Tây Ninh cột đấp Rồng,

Tượng hình Bạch Ngọc giữa Trời Đông.

Cửu Trùng Long Mã phô trên nóc,

Bát Quái trầm hương tỏa giáp vòng.

Một khối linh quang làu Nhựt Nguyệt,

Ba Đài thuần túy đẹp non sông.

Chí Tôn thế hiện nền Tân Giáo,

Cứu độ nhơn gian cảnh tạo bồng.

Ngày 30-9 Kỷ Dậu

Giáo Hữu NGỌC THIỆN THANH

 

        PHÚ NỘI Ô TÒA THÁNH

- Lãnh uyển tưởng chừng Thiên Nhiên đôi cụm.

- Đế Hương hiện rõ Tòa Thánh mấy tầng.

- Đồ sộ ba đài, tượng trưng Kinh Bạch Ngọc.

- Rỡ ràng trăm họ, chiêm ngưỡng Đức HỒNG QUÂN.

- Mùi ngào ngạt hương đưa vui nếp Đạo.

- Cảnh diềm dà bóng khỏa bặc màu trần.

- Rừng thưa, tai lắng giọng ca chim, hòa lẫn tiếng kinh đưa vòi vọi.

- Lộ thẳng, dương reo hơi sáo gió, vui vầy lòng khách nhẹ lâng lâng.

- Cội Bồ Đề hoa lá sum sê do Tích Lan vật quí đem dâng, cảm Đấng Thiên Quân chính tay trồng trước Điện.

- Ngựa PHẬT TỔ tuyết sương dày dạn hướng Chánh Môn mồ hôi còn đọng, thương Thầy Sa nặc nối gót ở sau lưng.

- Kìa HỘ PHÁP ĐƯỜNG, nọ GIÁO TÔNG ĐƯỜNG di tích tiền nhân đã giác thế đông tây ba kỳ hội.

- Đây CHÍ TÔN điện, đó PHẬT MẪU điện, thể hình Thượng Giới để trụ hồn sông núi bốn ngàn xuân.

- Nay nhìn Thánh Địa nhớ chùa tranh, Đạo dựng năm Đinh Mão.

- Xưa mượn Thiền Lâm ở Gò Kén, Trời khai Hội Bính Dần.

- Tam Kỳ phổ cập Quần Sinh phương độ rỗi.

- Vạn quốc chiến tranh nguyên tử nạn hầu gần.

- Xuân nhựt nay về cùng đất nước.

- Thanh bình sớm đến với nhân dân.

- Lòng đạo đơm ngần hoa tín ngưỡng.

- Tranh đời vẽ đẹp nét duy tân.

- Ngọn gió xuân thoảng nhẹ đỉnh trầm hương, chuông trừ tịch tiếng vang miền đô Thánh.

- Oai trống sấm xé tan lằn khí quyển, đêm giao thừa đèn tợ bóng sông ngân.

- Hứng niệm, Cao Thượng CHÍ TÔN Đại Đạo hòa bình dân chủ mục.

- Vui câu, Đài Tiền sùng bái Tam Kỳ cộng hưởng tự do quyền.

- Vòng thoại khí bao trùm ngôi Bửu Điện.

-Ánh tường vân chiếu thấu ngọn Linh Sa.

- Muôn tia trau tria cành phước lộc.

- Ngàn hồng tua tủa bóng thiều quang.

- Mát mẽ màu trời tầng bích rạng.

- Xinh tươi vườn Đạo sắc xuân ngần.

- Đẹp mắt Trời mai ngắm đóa mai, mơ hồn vũ trụ đề thơ vịnh.

- Xuê cành lá mới mừng năm mới, chuốc chén đồ tô hứng cảnh nhàn.

Đầu Xuân Kỷ Dậu

HUỆ PHONG

 

        CẢM TƯỞNG
        LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG

            (Phú thể mới)

- Vui tiết Trung Thu hứng cảnh.

- Nhớ khi THƯỢNG PHẨM xây bàn.

- Ngài nhờ Cửu Vị điển ban.

- Buổi gặp Tam Kỳ ân xá.

- Đền PHẬT MẪU tượng trưng Cung Tạo Hóa.

- Lòng Nhơn Sanh chiêm ngưỡng Đấng từ bi.

- Nơi Thiêng Liêng đảnh lễ Đức DIÊU TRÌ.

- Cõi trần thế trình tường đêm Hội Yến.

- Gương bạch thố rạng làu soi trước Điện.

- Tiếng Thanh Loan văng vẳng tưởng trên ngàn.

- Đỉnh trầm hương khói tỏa ánh linh quang.

- Bàn Đào tửu hoa đơm ngần thoại khí.

- Giọng tiêu thiều trổi hơi thuần túy.

- Bầu cam lộ chuốc chén tinh anh.

- Nguyện trên Đức Mẹ chứng lòng thành.

- Ngự xuống đoàn con nhuần phúc huệ.

- Kìa bảy quả đào xưa, Mẹ cho Đài Hớn Đế.

- Trong tám tiên thời trước, con nhớ tích Ngưng Dương.

- Thơ mừng PHẬT MẪU tứ phi thường.

- Lễ thấy Lương Sanh giờ hội ngộ.

- Bể khổ lo chèo thuyền tế độ.

- Khách trần vui để bước thung dung.

 

                            THI

Thanh Loan bóng hiện vọi cung trung,

Bửu Điện trầm hương phất mấy trùng.

Tượng cảnh PHẬT, TIÊN người thế kỉnh,

Chuốc Bàn Đào Tửu khách Thiên dùng.

Hớn Đài buổi nọ linh quang phủ,

Việt Đảnh đêm nầy thoại khí xung.

Xưng tụng ngâm vần thiều ngọc trổi,

Ân lành Đức Mẹ rưới chan chung.

Trung Thu Kỷ Dậu

HUỆ PHONG


 

[1] 96 mẫu 76 sào tính luôn lộ CA BẢO ĐẠO khi còn ở Nội Ô.

[2] GIÁO SƯ người Pháp.

[3] Ngày 17-7-Giáp Ngọ (15-8-1954) tạo hoàn thành.

[4] Tính luôn cây thâu lôi.

[5] 96 thước tính luôn tam cấp và mái Đền.

[6] Tính mặt lót gạch bông và dưới chân nền không kể tam cấp.

[7] VÕ THÀNH LƯỢNG.

[8] 6 giờ chiều ngày 13 tháng 2 năm Đinh Mão (DL. 16-3-1927)

[9] Hòa Thượng GIÁC HẢI  chủ Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén).

[10] Khi dời cốt Phật các Đấng dặn Đức CAO THƯỢNG PHẨM giữ đừng cho sứt mẻ cốt Phật là tốt.

[11] Khi còn Đầu Sư.

[12] Lễ Sanh THƯỢNG XƯỜNG THANH.

[13] Dăm bào.

[14]  Đức Quyền GIÁO TÔNG.

[15] Vị Đại Đức Narađa người Tích Lan hiến hồi 15-5 năm Quí Tỵ (1953). Đức Hộ Pháp trồng vào mùa Hạ năm Ất Mùi (1955).

[16] Từ năm 1950 đổ lên thì Công Viện có trồng thêm cây: Sao, Huỷnh, Vên Vên.

[17] Đức THƯỢNG PHẨM gọi tên con ngựa Kiền Trắc.

[18] Thanh Tùng một nhà thơ đã quá cố.

[19] 7 giờ mai ngày 7 tháng giêng năm Giáp Tuất (1934) Chánh quyền Pháp mời Đức Quyền GIÁO TÔNG giam 24 tiếng đồng hồ. Sau khi trả tự do Ngài giao hoàn Bắc Đẩu bội tinh vào ngày 10 tháng giêng năm Giáp Tuất (1934).

[20] ĐỨC HỘ PHÁP, bút hiệu ÁI DÂN, còn bút hiệu riêng là TÂY SƠN ĐẠO, từng viết những bài báo, lời lẽ rất đanh thép.

[21] Trước đời nhà MINH đạo quân Mông Cổ kéo vòng quanh Đông Nam Á vào Thế Kỷ 13, đến tàn phá cảnh ĐẾ THIÊN.

[22] Trước khi giặc tàn phá thì những báu vật đã đem chôn dưới nền Chùa để làm đồ trấn Quốc, nên về đêm ánh ngọc rực sáng cả Chùa. Những bài trên đây do điển quang của ĐỨC HỘ PHÁP và Ngài CAO TIẾP ĐẠO phò loan.

[23] Khởi công ngày 01-11-Bính Tý (1936) 4 giờ chiều ngày 8-1 Đinh Hợi dời Quả Càn Khôn nơi Báo Ân Từ về an vị tại  Tòa Thánh.

[24] Sáng lại có một thứ chim bay đậu chỗ Ngài nghỉ kêu lên 3 tiếng (chọc, chú, chàng)...

[25] Đức Ngài về tới Sài Gòn  ngày 1-8-Bính Tuất, về đến Tòa Thánh ngày 4-8-Bính Tuất (30-8-46)

[26] Đức Ngài rời Tòa Thánh ngày 18-4-Giáp Ngọ (20-5-1954)

[27] Bài nầy khi Đức Ngài đến nước Pháp thì Ngài gởi bài nầy về trước khi đôi bên chưa hội.

[28] Thỉnh tro về tới Tòa Thánh ngày 20-9-Giáp Ngọ. Ngày 16-11-Bính Thân (17-12-1956) con của Đức Kỳ Ngoại Hầu đến Tòa Thánh thỉnh tro đem về Huế.

[29] Đêm 4 rạng 5 tháng giêng Bính Thân (1956)

[30] Ngày 10 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1959)

[31] Ngày 4-8-Quý Tỵ (11-9-1953) Lễ An vị

[32] Hiếu tử Quách Cự, hoàng kim nhứt hũ dụng dĩ tứ nhữ.

[33] Ba trăm cây gấm.

[34] Khi nào con Thanh Loan bay đến đậu ở Đài Nhà Hớn thì PHẬT MẪU đến.

[35] Bốn Thị Nữ: 1-Đổng Song Thành, 2-Vương Tử Phái, 3-Hứa Phi yến, 4-An Phát Trinh.

[36] Khi Đức PHẬT MẪU đến cho Hớn Võ Đế bảy quản bàn đào.

[37] Khởi công lập Bá Huê Viên mở đường hình Bát Quái ngày 8 tháng 7 năm Kỷ Hợi (11-8-1959).

[38] Ngày 16-6 Canh Tý (8-8-1960) lễ thương lương. Lễ khánh thành ngày 9-1 năm Quí Mão (2-2-1963).

[39] Trùng tu lại xong, làm lễ Khánh thành ngày 16 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1969)

[40] CHƠN NHƠN tổng số hiện hữu 14 vị.

Tủ Sách Đại Đạo xin chân thành cảm ơn Huynh Nguyễn Văn An (Long Hoa, Tây Ninh) đã công quả đánh máy lại tập sách này.

 




   HOME